Quantcast
Channel: Lịch Sử VNQDĐ – https://vietquoc.org
Viewing all 216 articles
Browse latest View live

TƯỞNG NIỆM 13 ANH HÙNG LIỆT SĨ VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG HY SINH TẠI YÊN BÁI NGÀY 17-6-1930

$
0
0

Đảng Trưởng VNQDĐ: Nguyễn Thái Học (1902-1930)

Ngày 17 tháng 6 hàng năm đã trở thành ngày tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ VNQDĐ bị Pháp xử chém tại pháp trường Yên Bái vì đã xả thân tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, cho hạnh phúc của giống nòi. Sự hy sinh cao cả của 13 vị liệt sĩ cách mạng Việt Nam là gương sáng chói lọi cho các thế hệ Việt Nam sau này trong sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc.

Xin thuật lại sơ lựợc lịch sử và ý nghĩa ngày tưởng niệm này để chúng ta cùng suy nghĩ, tâm niệm, nhất là đối với các bạn trẻ trong và ngoài nước.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Vào đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp ngày càng đè nặng ách thống trị lên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam. Chúng đàn áp dã man, bóc lột tận xương tủy; nào sưu cao thuế nặng, nào bắt bớ giam cầm, tù đày, tra tấn, thủ tiêu những người yêu nước; các phong trào chống Pháp trước đó đều bị dẹp tan. Khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng oán hờn, nỗi uất hận cao ngút thấu trời xanh.

Trước hoàn cảnh cực kỳ đau thương đó, các thanh niên Việt Nam nói riêng, tòan dân Việt nói chung, không thể tiếp tục cúi đầu khuất phục, đều đứng lên chống lại bạo quyền. Nguyễn Thái Học, một sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại Hà Nội mới 24 tuổi cùng các thanh niên Việt Nam yêu nước khác như Nhượng Tống, Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc… bí mật thành lập một tổ chức cách mạng lấy tên là VIỆT-NAM QUỐC-DÂN ĐẢNG vào ngày 25/12/1927. Mục đích và tôn chỉ của VNQDĐ là tiến hành một cuộc cách mạng quốc gia, dùng vũ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến , thiết lập một nước Việt Nam Độc Lập Cộng Hoà. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức, đặc biệt là các lân quốc Ai Lao và Cao Miên đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập tự do cho dân tộc họ. Nguyễn Thái Học được bầu làm Chủ Tịch Tổng Bộ. Cụ Phan Bội Châu được suy cử là Đảng Trưởng Danh dự. Sau đó, VNQDĐ bành trướng mau lẹ, lan khắp các tỉnh miền Bắc Việt Nam.

Ngày 9 tháng 2 năm 1929, nhằm chiều 30 Tết Mậu Thìn, tên trùm thực dân Pháp Bazin, Giám đốc sở mộ phu cho các đồn điền bị ám sát tại Hà Nội do các đảng viên VNQDĐ Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Đức Lung, Nguyễn Văn Lân thực hiện, gây chấn động khắp Đông Dương. Mật thám Pháp gia tăng khủng bố, trả thù tàn bạo.

CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA YÊN BÁI

Trước hoàn cảnh cùng cực của người dân, trước sự ruồng bố gắt gao của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết định Tổng Khởi Nghĩa vào ngày 10-2-1930 sau phiên họp lịch sử của VNQDĐ tại Võng La làng Mỹ Xá ngày 26 tháng Giêng năm 1930, dưới sự chủ toạ của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu (Xứ Nhu)và Phó Đức Chính. Cũng trong phiên họp lịch sử này, Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế câu nói bất hủ “KHÔNG THÀNH CÔNG CŨNG THÀNH NHÂN”.  Sáng sớm ngày 10 tháng 2 năm 1930, Quân Cách Mạng đồng loạt tấn công nhiều cứ điểm quân sự của Pháp ở khắp nơi: Tấn công Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa; ném bom cầu Long Biên, nội thành Hà Nội; đánh Đáp Cầu, Phả Lại; tấn công đồn binh Pháp Kiến An; đánh Phủ Dực, Vĩnh Bảo, Thái Bình; giết chết nhiều sĩ quan, binh lính địch và chiếm nhiều căn cứ của thực dân.  Đặc biệt, trên mỗi tay áo các chiến sĩ VNQDĐ đều có gắn chữ “Cách Mạng Quân”, với khăn choàng trước ngực có hàng chữ : “THỀ CHẾT GIẾT GIẶC PHÁP, LIỀU MÌNH CỨU DÂN NAM”. 

Quân Pháp với vũ khí tối tân đã phản công mạnh bạo khiến cho quân Khởi Nghĩa cuối cùng bị đẩy lui vì phương tiện còn thiếu thốn. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học trốn thoát nhưng cuối cùng bị sa lưới quân thù vào ngày 20/2/1930 tại ấp Cổ Vịt vì ông nhất định ở lại, sống chết cùng các đồng chí, không chịu trốn sang Trung Hoa lưu vong.

CUỘC HÀNH QUYẾT NGÀY 17-6-1930 TẠI YÊN BÁI

Nhằm tiêu diệt mầm mống cách mạng, đồng thời khủng bố tinh thần những người yêu nước khác,ngày 23 tháng 3 năm 1930,  Hội Đồng Đề Hình thực dân đã kết án tử hình 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Yên Bái ngày 17-6-1930. (Mức Án sơ khởi là: 39 người bị án tử hình; 33 người bị án khổ sai chung thân; 9 người bị án 20 năm khổ sai; 5 người bị án tội đày trong số có cô Nguyễn Thị Bắc 5 năm tù ở.  Đặc biệt trước phiên tòa , cô Nguyễn Thị Bắc đã phản đối kịch liệt và hô to: “ Các ngươi hãy về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne D’ Arc đi thôi.”

Trong tác phẩm “Từ Yên Bái đến ngục thất Hỏa Lò”, tác giả Hoàng Văn Đào đã tường thuật cuộc xử chém như sau :

“Yên Bái, một vị trí lịch sử lần thứ hai lại chứng kiến các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đền nợ nước.

Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có các thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh Mục Mechet và Dronet. Máy chém cũng di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công. 

“Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17-6-1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.” 

Danh tánh của 13 Liệt Sĩ đã lần lượt lên máy chém như sau : Bùi Tử Toàn (37 tuổi), Bùi Văn Chuẩn (35 tuổi), Nguyễn An (31 tuổi), Hồ Văn Lạo (25 tuổi), Đào Văn Nhít, Nguyễn Văn Du, Nguyễn Đức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Đỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên (20 tuổi), Phó Đức Chính (23 tuổi) và cuối cùng là Nguyễn Thái Học (28 tuổ). Tất cả các liệt sĩ đều dõng dạc hô to :”Việt-Nam Muôn Năm” trước khi máy chém rơi trên đầu những nhà Cách Mạng. Riêng ông Phó Đức Chính đòi nằm ngửa để nhìn lưỡi chém rớt xuống cổ mình.

Ký giả Pháp Louis Roubaud, chứng kiến cuộc hành hình các nhà cách mạng Việt Nam sau này đã viết: “Tôi phải dở nón nghiêng mình kính phục tinh thần ái quốc, lòng dũng cảm vô bờ bên của những người Việt Nam…” (Vietnam, Tragédie Indochinoise) 

Sau ý định tổ chức giải cứu các đồng chí bất thành, lại tận mắt chứng kiến lần lượt 13 đồng chí của mình lên đoạn đầu đài, ngày hôm sau, nữ đảng viên Nguyễn Thị Giang ( Cô Giang) trở về làng Thổ Tang.  Cô vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, lạy tạ cụ Ông và cụ Bà Nguyễn Văn Hách, cha mẹ Nguyễn Thái Học, tháo chiếc đồng hồ tay đang đeo tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em Nguyễn Thái Học. Cô đi bộ đến quán bán nước trà xanh, nơi gốc cây đề, đứng hướng mặt về làng Thổ Tang, dùng súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương, tuẫn tiết theo người yêu, người đồng chí của mình, cũng là đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930 tức là ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ. Cô Giang hưởng dương 22 tuổi.    

 Trong cuộc Khởi Nghĩa Yên Bái, trên 30 đảng viên VNQDĐ đã bị xử chém, hàng ngàn đảng viên khác bị xử án từ chung thân đến lưu đày biệt xứ. Số còn lại đã rút vào bóng tối, tiếp tục cuộc chiến đấu. Cuộc Khởi Nghĩa tuy thất bại nhưng đã tạo nên tiếng vang khắp nơi, làm nức lòng đồng bào trong nước và gây rúng động cả chính quốc Pháp. 

Sau này, Nguyễn Phan An có làm bài thơ tưởng niệm Nguyễn Thái Học như sau: 

Yến Bái đầu rơi một sớm nào,
Lòng son ngời sáng với trăng sao…
Vì dân dựng Đảng, ôi ! xương trắng,
Vì nước ra công, hỡi máu đào !
Cách mệnh chưa thành ! Sông núi khóc,
Tài mưu sớm thác ! Gió mưa gào.
Mai mươi tám tuổi “thành nhân” ấy,
Trang sử ngàn thu đã bước vào.

TIẾP NỐI TINH THẦN YÊN BÁI

Xử chém được 13 chiến sĩ  VNQDĐ tại Yên-Bái, thực dân Pháp đã tưởng đàn áp được tinh thần yêu nước của dân ta. Trái lại, tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất và noi gương hy sinh dũng cảm của tiền nhân trong đó có 13 vị Liệt Sĩ Yên Bái, nhiều thế hệ dân tộcViệt Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, chống độc tài, chống phong kiến và hiện nay còn đang mạnh mẽ chống lại ách cai trị tàn bạo của tập đoàn cộng sản Việt Nam tại Hà Nội. Đất nước đang bị lâm nguy trước họa xâm lăng của giặc bành trướng phương Bắc, tinh thần bất khuất Yên Bái cần được toàn dân gìn giữ, trân trọng tiếp nối để Tổ Quốc vĩnh viễn được Độc Lập, Dân Quyền thật sự được Tự Do, Dân Sinh thật sự được Hạnh Phúc.

Đài tưởng niệm các liệt sĩ Yên Báy

 CHÚNG TÔI ĐI TR N NƯÓC ĐÂY,
CÁC ANH EM CÒN SNG C NGƯI NÀO VIC Y,
C ĐC LP PHI NHUM BNG MÁU,
HOA T DO PHI TƯI BNG MÁU!
T QUC CÒN CN ĐN S HY SINH CA CON DÂN NHIU HƠN NA!
RI TH NÀO CÁCH MNG CŨNG THÀNH CÔNG!
(Lời của Nguyễn Thái Học dặn lại các đồng chí trước khi ra pháp trưòng ngày 17 tháng 6 năm 1930)

Tượng đài tưởng niệm 13 liệt sĩ Yên báy tại Công Viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái (miền Bắc)


17 tháng 6 Tưởng niệm ngày Tang Yên Báy 13 Anh hùng dân tộc VNQDĐ Vị Quốc Vong Thân:

$
0
0

Hội Ái Hữu Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn tưởng niệm Ngày Tang Yên Báy 17/06

13 Liệt sĩ Yên Báy

Nguyễn Thái Học
Phó Đức Chính
Bùi Tư Toàn
Bùi Văn Chuẩn
Nguyễn An
Hà Văn Lạo (25 tuổi)
Đào Văn Nhít
Ngô Văn Du
Nguyễn Đức Thịnh
Nguyễn Văn Tiềm
Đỗ Văn Sứ
Bùi Văn Cửu
Nguyễn Như Liên (20 tuổi, sinh viên bí danh Ngọc Tỉnh)

NHỮNG ANH HÙNG DÂN TỘC TUẪN QUỐC

Thương tiếc các vị Anh hùng dân tộc vị quốc vong thân, trong số các bài thơ ca, có bài thơ “Ngày Tang Yên Bái” được in trong sách giáo khoa tiểu học thời bấy giờ:
Gió căm hờn rền rĩ tiếng gào than
Từ lưng trời sương trắng rủ màn tang
Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ
Trên Yên Bái đang u sầu và lặng lẽ
Giữa mấy hàng gươm sáng tỏa hào quang
Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang
Thong thả tiến đến trước đài danh dự
Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ
Vài cụ già đầu bạc, lệ tràn rơi
Ngất người sau tiếng rú: “Ới, con ơi!”
Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn
Trên khóe mắt đã từng khinh đau đớn
Của những trang anh kiệt sắp lìa đời
Nhưng chỉ trong giây lát vẻ tươi cười
Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước
Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước
Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường
Éo le thay! Muốn phụng sự quê hương
Phải dẫm nát bao lòng mình quí mến
Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến
Sau cái nhìn chào non nước bi ai
Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
“Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng
“Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.

NHỮNG ĐOÁ HOA MÁU ĐẦU THẾ KỶ 20:

Anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học là một sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại Hà Nội. Ông thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, chủ trương bạo động chống Pháp, được sự tham gia đông đảo của giới thanh niên. Cuộc tổng khởi nghĩa năm 1930 bị thất bại, ông cùng 12 đồng chí bước lên máy chém ở Yên Bái. Trước khi chết ông bình tĩnh nhìn dân chúng, mỉm cười rồi hô to: “Việt Nam Muôn Năm”.

English: Hero Nguyen Thai Hoc: Nguyen was a student of Business College of Hanoi. He founded the Vietmese Nationalist Party who used violence to fight the French. The party gained broad support from Vietnamese youths. The failure of the party’s rising up in arms in 1930 brought Hoc and his 12 comrades to the decap machine at Yen Bai. Before the death, Nguyen Thai Hoc calmly looked at his people, smiled and shouted “Vietnam For Ever”.

France: Le héro Nguyên Thai Hoc: Nguyên Thai Hoc fut un étudiant de l’Ecole de Commerce de Hà Nôi. Il fonda le Parti Nationaliste Niêtnamien qui utilisa la violence pour combattre les français. Le parti gagna un large soutien des jeunes viêtnamiens. L’échec du soulèvement armé de 1930 eut pour résultat la décapitation de Hoc et de ses 12 compagnons à Yên Bai. Avant de mourir, Nguyên Thai Hoc regarda tranquillement son peuple en souriant et cria “Le Viêt-Nam pour toujours”.

NGUYỄN THÁI HỌC và CÁC ĐỒNG CHÍ TRƯỚC GIỜ BỊ PHÁP HÀNH QUYẾT.

Trong đề lao Yên Báy các tù nhân bị nhốt chung một gian nhà. Cai Công đao phủ, dáng lùn tịt, mặt lúc nào cũng tây tấy, mò đến bên các tù nhân. Trước Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính thì Công dừng lại. Cử chỉ rất lạ, đã từng giật máy chém, chém bao nhiêu người, cai Công chưa làm thế bao giờ. Hắn cảm thấy như có gì cào cấu trong ruột, mồ hôi rịn ướt trên da mặt sẫm từng vệt tàn nhang, tay chân nhức nhối như dòi bò. Hắn đã nốc bao nhiêu rượu để có quên cảm giác ghê rợn. Tự dưng hắn quỳ phục xuống trước mặt Nguyễn Thái Học, khóc rưng rức. Hắn nói:

– Mong các ông xá tội cho. Các ông chết trẻ sẽ thiêng lắm. Tôi biết tôi trọng tội, nhưng vì miếng cơm manh áo, tôi phải làm theo phận sự. Xin các ông mở lượng hải hà khoan lượng.

Nguyễn Thái Học khuyên:

– Ông Cai Công ạ! Nghề này thất đức lắm. Ông nên giải nghệ đi. Nếu có thiêng liêng thật, chúng tôi cũng không thèm chấp với ông đâu. Ông cũng chỉ là cái máy bên cái máy chém. Giải nghệ đi kẻo tội lỗi chất chồng tội lỗi, xuống âm phủ Diêm Vương cũng không chấp nhận ông đâu!

Cai Công ấp úng nói: “vâng”, và cứ thế quỳ trước Nguyễn Thái Học đến tận lúc bọn cai nhà lao lục tục thúc giục tù nhân ra pháp trường.

5 giờ 5 phút ngày 17 tháng 6 năm 1930, bốn trăm cảnh binh, cảnh sát, mật thám và Lê Dương đã giăng ra bảo vệ khu hành quyết tù nhân. Không cho bất cứ ai lọt vào trừ những người làm phận sự. Pháp trường dựng ở bãi lính tập, trước khu nhà thờ, có hàng cây bàng và cây báng súng bao quanh. Đối diện với mấy ngôi nhà gạch mới xây.

Chiếc máy chém đen sì được đặt trên bãi cỏ. Nó vừa có chức năng chém người lại có chức năng dọa người. Lưỡi máy chém xám xịt được kéo lên theo rãnh trượt. Tử tù phải nằm trên một tấm ván, cổ bị gông lại. Chỉ cần giật nút hãm là lưỡi dao rơi tự do phập xuống. Ai yếu bóng vía chỉ trông hoặc nghe tiếng phập nhanh như thái chuối là đủ chết ngất hoặc vãi nước đái ra quần. Trong mọi cách hành hình thì đây là cách hành hình “văn minh man rợ” nhất. Nó lạnh lùng khủng bố tinh thần. Nó trấn áp, nó tra tấn thần kinh con người.

Trên đoạn đường trải đá bên cạnh pháp trường là dăm bảy chiếc xe bò chờ sẵn để chở xác người đi chôn.

Bãi bên, xếp 15 chiếc quan tài. Thấy lạ, nhà báo Louis Roubaud hỏi viên chánh cẩm:

– Sao xử chém 13 người mà lại có những 15 quan tài?

Hắn trả lời:

– Để đề phòng có người sợ quá vỡ tim mà chết tại chỗ! Tình huống này rất dễ xảy ra.

Lần lượt 13 anh hùng dân tộc lên đoạn đầu đài. Tất cả đều bình thản bước tới theo danh sách được gọi tên. Tất cả đều khước từ cố đạo rửa tội. Trước khi lưỡi dao máy chém phập xuống, ai cũng hô to: ”Việt Nam vạn tuế!”. Tiếng hô khản đặc đủ vang tới tường nhà thờ dội ra đường phố Yên Báy. Dòng máu phun trào từ cổ mỗi người đã đứt lìa, tia máu bắn xa hàng chục mét.

Nguyễn Thái Học phải đứng đó để chứng kiến lần lượt từng người văng đầu trên máy chém. Phó Đức Chính là người thứ 12 lên đoạn đầu đài. Cố đạo Méchet hỏi anh: “Cậu chết trẻ vậy có ân hận không?”. Phó Đức Chính trả lời thản nhiên: “Ở đời, mong làm lấy một việc lớn mà việc ấy không thành thì chết có gì ân hận”! Anh nói lớn: “Cho ta nằm ngửa để ta nhìn lưỡi dao tội ác của người Pháp”. Nhiều người ngoảnh mặt đi không dám ngó. Nhiều người lấy khăn lén lau nước mắt.

Đến lượt Nguyễn Thái Học. Anh ngậm điếu xì gà thật to. Gọi đến tên, anh phì điếu thuốc ra khỏi miệng, thong thả bước tới máy chém. Anh đọc câu thơ bằng tiếng Pháp:

Mourir pour sa patrie
C’est le sort le plus beau
La plus digne d’envie

(Chết cho đất nước của mình

Là cái chết đẹp nhất
Thanh thản tuyệt vời nhất)
Anh hô lớn: “Việt Nam vạn tuế! Việt Nam vạn tuế!”

Chiếc gông đã khớp vào cổ anh. Tiếng hô: “Việt Nam…” bị đứt đoạn. Đầu anh văng ra, cơ miệng anh theo quán tính còn mấp máy một thoáng.

Phía dân chúng đứng xem bỗng vang lên tiếng hô: “Đả đảo thực dân Pháp dã man!”. Những tiếng phụ họa “đả đảo, đả đảo” ầm ầm, buộc đám cảnh binh phải dùng tới dùi cui.

Viên công sứ De Bottini giơ tay xem đồng hồ. Đầu Nguyễn Thái Học rơi khỏi cổ lúc 5 giờ 35 phút, ngày 17 tháng 6 năm 1930 tức 21 tháng 5, năm Canh Ngọ.

Các Anh hùng dân tộc của Việt Nam thân xác và máu họ đã thấm vào lòng đất mẹ, để tên tuổi đi vào lịch sử và trường tồn với thời gian. 86 năm đã qua, lòng người dân Việt luôn ghi nhớ đến công ơn của những đoá hoa máu của đầu thế thế kỷ 20 đã vị quốc vong thân vì chữ Độc lập, Tự Do và Hạnh Phúc.

Một nén hương lòng tưởng nhớ những Anh hùng dân tộc đã chết để quê hương và dân tộc trường tồn.

Vụ Án Yên Bái: Không Thành Công Thì Thành Nhân

$
0
0

I. Hoàn Cảnh Chính Trị Vào đầu Thế Kỷ 20

Từ khi Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 tại nước ta, dân chúng Việt Nam liên tiếp nổi lên tranh đấu chống Pháp giành độc lập. Lúc đầu, những cuộc khởi nghĩa bạo động nổ ra dữ dội khắp nơi trong nước, nhưng lực lượng quân sự Pháp được trang bị tối tân hơn, đã đàn áp mạnh mẽ và dẹp yên dần dần các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần vương và Văn thân. Không thể chiến đấu bằng quân sự, các sĩ phu vào đầu thế kỷ 20 kiếm cách tranh đấu khác, chuyển qua vận động duy tân để canh tân đất nước, và từ đó tiến lên đòi hỏi độc lập.
Cuộc vận động duy tân chia làm hai hướng: Phan Bội Châu chủ trương đưa sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản du học để đào tạo cán bộ, đồng thời cầu viện Nhật Bản trở về phục quốc, và Phan Chu Trinh chủ trương phát động phong trào tân văn hóa trong nước, nâng cao dân trí, đề cao dân quyền, khuyến khích mở trường dạy chữ Quốc ngữ, phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, và thương nghiệp. Những hoạt động mạnh nhất theo đường hướng của Phan Chu Trinh là những tổ chức ở Quảng Nam, trường Dục Thanh cùng công ty Liên Thành ở Phan Thiết, và Ðông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Cả hai cuộc vận động Ðông du và Duy tân đều bị người Pháp tìm đủ mọi lý do để đàn áp, và cuối cùng bị tan rã năm 1908.

Việt Nam đang sống yên lành trong truyền thống và trong khu vực của mình, nhưng từ giữa thế  Vụ Án Yên Bái: Không Thành Công Thì Thành Nhân

kỷ 19, Việt Nam ở thế chẳng đặng đừng càng ngày càng tham gia vào đời sống chính trị thế giới. Nguyên do là tại Âu Châu, vào thế kỷ 18, cuộc cách mạng kỹ nghệ đã làm cho các nước Âu Châu phát triển giao thương, bành trướng thế lực khắp thế giới vào đầu thế kỷ 19, và không nước nào còn có thể bế quan tỏa cảng. Các nước Âu Châu thi nhau đánh chiếm thuộc địa, thi hành chủ nghĩa thực dân đế quốc. Sang thế kỷ 20, nhu cầu giải phóng dân tộc làm nẩy sinh trào lưu hình thành các đảng phái chính trị hoặc các liên minh quốc tế để mưu cầu việc giải phóng dân tộc, như đảng Cộng Sản ở Âu châu, đảng Quốc Ðại (Congress party) ở Ấn Ðộ, Quốc Dân Ðảng (Kuo min tang) ở Trung Hoa… Những nhà yêu nước Việt Nam liền đi theo hướng đó, thành lập những đảng phái tổ chức theo lối phương tây, tranh đấu vừa bằng đường ngôn luận, nghị trường công khai, và vừa bằng phương thức bạo lực cách mạng bí mật.

Ở ngoài nước, tại Trung Hoa, Tôn Văn(1) và Quốc Dân Ðảng đã thành công trong cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), lật đổ nhà Mãn Thanh. Lúc đầu, cuộc cách mạng còn gặp nhiều trở ngại, nhưng đến năm 1927, thống chế Tưởng Giới Thạch đem quân bắc phạt, thống nhất Trung Hoa dưới chế độ dân chủ. Ðiều nầy càng làm nức lòng những phong trào hoạt động cách mạng Việt Nam.

Trong khi đó, lãnh tụ Quốc Dân Ðảng Trung Hoa ở miền nam là Hồ Hán Dân đã giúp Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể cùng Phan Bội Châu tập họp các thành phần hoạt động cách mạng Việt Nam đang sống ở Trung Hoa, thành lập Việt Nam Quang Phục Hội tại Sa Hà (Quảng Châu, Trung Hoa) vào đầu năm 1912 (nhâm tý), do Cường Ðể làm hội trưởng và Phan Bội Châu làm tổng lý.(2) Quang Phục Hội đã hoạt động tích cực ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, nhưng đều bị thất bại.

Năm 1924, cũng tại Quảng Châu, những hội viên cấp tiến của Quang Phục Hội đứng ra thành lập Tâm Tâm Xã. Xã có nghĩa là tổ chức, “tâm tâm” là ý hợp tâm đầu, đồng tâm nhất trí. Tâm Tâm Xã đã giao trọng trách ám sát toàn quyền Martial Merlin (cầm quyền từ 10-8-1923 đến 27-7-1925) cho Phạm Hồng Thái khi Merlin ghé Quảng Châu ngày 18-6-1924 trên đường từ Nhật Bản về Việt Nam. Tối hôm đó, Merlin dự tiệc tại khách sạn Victoria, ở Sa Diện, tô giới ngoại quốc ở Quảng Châu. Phạm Hồng Thái giả làm phóng viên, ném vào chỗ ngồi của Merlin một quả bom, làm năm người tử thương, nhưng Merlin thoát hiểm. Phạm Hồng Thái bỏ chạy và nhảy xuống dòng Châu Giang tự tử. Vụ ám sát nầy gây một tiếng vang rất lớn trên chính trường quốc tế.

Vào đầu năm 1925, do nhu cầu của tình hình, nhất là muốn nhờ sự giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng, Phan Bội Châu dự định cải đổi Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Ông chưa kịp hoàn tất đảng cương thì bị người Pháp bắt ngày 1-7-1925, đưa về Hà Nội.(3) Người bán tin cho Pháp bắt ông là Lý Thụy tức Hồ Chí Minh, nhắm gạt bỏ ông ra khỏi chính trường, và giành lấy việc lãnh đạo những tổ chức chống Pháp ở Trung Hoa.

Ở trong nước, sau sự thất bại của phong trào Duy tân và Ðông du, người Việt Nam quay qua bạo động chống Pháp trở lại, mà nổi bật nhất là cuộc nổi dậy của Phan Xích Long ở Sài Gòn năm 1913, cuộc khởi nghĩa tại Huế của Việt Nam Quang Phục Hội Trung Kỳ năm 1916 do vua Duy Tân (trị vì 1907-1916) đứng đầu, và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến chủ xướng.(4)

Tiếp đó, các đảng phái chính trị bắt đầu được hình thành. Lúc đầu, các đảng chính trị khá ôn hòa như đảng Lập Hiến (Parti Constitutionaliste) do các ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, Phan Văn Trường lập năm 1923 ở Sài Gòn; đảng Thanh Niên do một số giáo sư, ký giả thành lập năm 1926 cũng ở Sài Gòn, xuất bản tờ Jeune Annam (Tân An Nam), nhưng bị đóng cửa ngay; đảng Phục Việt do các ông vừa tân học như Nguyễn Văn Phùng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Xuân Chữ và vừa cựu học như Ngô Ðức Kế, Lê Văn Huân… thành lập năm 1925 tại Bắc Kỳ (đảng nầy sau đổi tên thành Tân Việt Cách Mạng Ðảng năm 1927). Lúc nầy dư luận Việt Nam sôi nổi vì hai sự kiện quan trọng:

Thứ nhất, sau khi bị bắt tại Trung Hoa vào tháng 7-1925, Phan Bội Châu bị Pháp đem về giam ở ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội, bị đưa ra xét xử trước hội đồng đề hình và bị kêu án khổ sai chung thân. Phong trào dân chúng phản đối lan rộng khắp nước. Toàn quyền Alexandre Varenne (cầm quyền 18-11-1925 đến 22-8-1928) phải ân xá Phan Bội Châu và đưa ông vào Huế an trí tháng 12-1925.

Thứ nhì, Phan Chu Trinh về nước năm 1925, sống và diễn thuyết ở Sài Gòn, rồi qua đời ngày 24-3-1926. Dân chúng trên toàn quốc làm lễ tang và truy điệu ông một cách rầm rộ. Chính trong hoàn cảnh sôi động nầy, Việt Nam Quốc Dân Ðảng được thành lập.

II. Việt Nam Quốc Dân Ðảng

Tại Hà Nội, năm 1926 Phạm Tuấn Lâm (Dật Công), Phạm Tuấn Tài (Mộng Tiên) và Hoàng Phạm Trân (Nhượng Tống) cùng nhau thành lập Nam Ðồng Thư Xã.(5) Năm sau có thêm Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch gia nhập vào thư xã nầy. Nam Ðồng thư xã chuyên xuất bản các loại sách chính trị phổ thông giúp dân chúng làm quen với tư tưởng cách mạng. Những sách đầu tiên thường do Phạm Tuấn Tài soạn, viết về các nhà cách mạng Trung Hoa như Tôn Dật Tiên, và Ấn Ðộ như Gandhi, về cách mạng thế giới, chủ nghĩa quốc gia…Về sau, sách do thư xã nầy in ra đều bị cấm và bị tịch thu, nhưng các nhân vật trong Nam Ðồng Thư Xã vẫn tiếp tục hoạt động và vận động cùng nhau thành lập một đảng cách mạng. Cuối tháng 10-1927, chi bộ đầu tiên được thành lập do Nguyễn Thái Học làm chi bộ trưởng, gọi là chi bộ Nam Ðồng Thư Xã, làm cốt lõi để đi vận động khắp nơi. Trong vòng một tháng, tổ chức nầy phát triển thêm được 18 chi bộ ở rải rác 14 tỉnh Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ. Cuối cùng, lợi dụng dịp lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, dân chúng đi lại sinh hoạt động đúc náo nhiệt, việc kiểm soát an ninh của Pháp không thể chu đáo, một đại hội được triệu tập vào lúc 8 giờ tối ngày 25-12-1927, tại nhà ông Lê Thành Vị, làng Thể Giao, thành phố Hà Nội. Lúc đầu hội nghị tiến hành theo đúng chương trình dự định, nhưng vào giữa cuộc họp, có tin báo động cuộc họp đã bị mật thám Pháp theo dõi, đại hội phải tạm thời giải tán; các thành viên bí mật di chuyển đi chỗ khác, và tái họp vào lúc 2g30 sáng 26-12 ngay tại trụ sở Nam Ðồng Thư Xã. Kết quả đại hội đưa đến quyết định thành lập một đảng phái cách mạng lấy tên là Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ) và bầu ra ban lãnh đạo tổng bộ lâm thời như sau:

Chủ tịch: Nguyễn Thái Học
Phó chủ tịch: Nguyễn Thế Nghiệp
Uỷ ban tổ chức: Phó Ðức Chính (Trưởng ban), Lê Văn Phúc (Phó trưởng ban)
Uỷ ban tuyên truyền: Nhượng Tống (Trưởng ban)
Uỷ ban ngoại giao: Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch
Uỷ ban tài chánh: Ðặng Ðình Ðiển, Ðoàn Mạnh Chế
Uỷ ban giám sát: Nguyễn Hữu Ðạt, Hoàng Trác
Uỷ ban trinh sát: Trương Ðình Báo, Phạm Tiềm
Uỷ ban ám sát: Hoàng Văn Tùng
Uỷ ban binh vụ: (còn trống) (6)

Nguyễn Thái Học sinh năm quý mão (1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Ðiền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên,(7) con ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh. Nguyễn Thái Học còn có một em gái là Nguyễn Thị Hiền, và ba em trai là Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, và Nguyễn Văn Nỉ. Lúc nhỏ, Nguyễn Thái Học học chữ Nho. Năm 1913, ông theo học tại trường Pháp Việt phủ Vĩnh Tường, rồi trường Pháp Việt thị trấn Việt Trì. Năm 1921, Nguyễn Thái Học trúng tuyển vào trường Cao Ðẳng Sư Phạm Hà Nội, nhưng học đến năm thứ ba thì Nguyễn Thái Học bỏ trường Sư Phạm, qua học trường Cao Ðẳng Thương Mại Hà Nội. Năm 1925, Nguyễn Thái Học gởi cho toàn quyền Alexandre Varenne một lá thư đề nghị cải cách công thương nghiệp Việt Nam, thiết lập một trường Cao Ðẳng Công Nghệ tại Hà Nội, và cho người Việt được mở trường học. Năm sau, ông viết một thư khác yêu cầu nhà cầm quyền Pháp cải tổ hành chánh, tạo điều kiện cho dân nghèo sống cuộc đời dễ chịu hơn, ban hành quyền tự do ngôn luận… Cả hai lá thư đều không được trả lời.(8)

Ðang theo học trường Thương Mại, Nguyễn Thái Học gia nhập Nam Ðồng Thư Xã và dấn thân hoạt động cách mạng. Về đời tư, Nguyễn Thái Học có một người vợ tên là Nguyễn Thị Cửu do cha mẹ hỏi cưới theo tập tục xưa, nhưng hai người không hề sống chung. Khi bắt đầu hoạt động chính trị, Nguyễn Thái Học gởi thư xin lỗi cha mẹ về việc nầy và xin để cho bà Cửu đi lấy chồng khác.

Mục đích và tổ chức của Việt Nam Quốc Dân Ðảng được nêu rõ trong điều lệ đảng. “Mục đích và tôn chỉ của Ðảng là làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Ðộc lập Cộng hòa. Ðồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ đặc biệt là các lân quốc: Ai Lao, Cao Miên.”(9)

Về tổ chức, Việt Nam Quốc Dân Ðảng theo cách thức của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng. Mỗi chi bộ gồm 19 người; đại biểu chi bộ họp thành tỉnh bộ; đại biểu tỉnh bộ họp thành kỳ bộ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ).(10) Từ chi bộ tới kỳ bộ, mỗi cấp cp1 bốn ban: tài chánh, tuyên truyền, trinh thám, và tổ chức. Kỳ bộ cử 6 đại biểu vào tổng bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo tối cao của đảng, đứng đầu là chủ tịch và phó chủ tịch đảng. Ngoài bốn ban trên, tổng bộ còn có thêm bốn ban: giám sát (tư pháp), binh vụ (quân sự), ngoại giao, và ám sát.

Chương trình hành động của VNQDÐ được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn “phá hoại”, và giai đoạn “kiến thiết”.

1. Giai đoạn phá hoại gồm ba thời kỳ: (1a) thời kỳ phôi thai : hoạt động bí mật, xây dựng đảng, kết nạp đảng viên; (1b) thời kỳ dự bị (sửa soạn) : hoạt động nửa bí mật nửa công khai, phát triển tuyên truyền, tổ chức đảng; lập các đoàn: nông, công, binh, học sinh, sinh viên, thanh niên; (1c) thời kỳ hành động : dùng võ lực đánh đổ bộ máy thống trị thực dân phong kiến, lập nên chế độ Cộng Hòa Dân Chủ, mang độc lập tự do cho tổ quốc, hạnh phúc cho toàn dân.

2. Giai đoạn kiến thiết cũng chia làm ba thời kỳ: (2a) thời kỳ quân chính : quân cách mạng chiếm đến đâu là thành lập ngay chính quyền cách mạng quân sự đến đó; (2b) thời kỳ huấn chính : tổ chức các cơ cấu dân chủ, hướng dẫn dân chúng quen với nếp sống dân chủ về các thể chế mới… Trong hai thời kỳ đầu nầy, áp dụng nguyên tắc “dĩ đảng trị quốc”; (2c) thời kỳ hiến chính : tổ chức phổ thông đầu phiếu, bầu cử Quốc dân đại hội, xây dựng hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.(11)

Thể thức kết nạp đảng viên quy định như sau: một người muốn vào đảng, phải có hai đảng viên cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải qua sự điều tra trước của uỷ ban trinh thám ít nhất là nửa tháng, phải được toàn thể ban chấp hành chi bộ đồng ý, và sau cùng phải làm lễ tuyên thệ dưới sự chứng kiến của nhân viên tỉnh bộ.

Tuy điều kiện kết nạp khá chặt chẽ, nhưng để phát triển đảng nhanh chóng, việc kết nạp đảng viên lúc đầu có phần dễ dãi, bị nhiều thành phần phức tạp trà trộn và từ đó nhiều bí mật đảng bị tiết lộ. Ðiều nầy làm hại đảng rất nhiều nên sau vụ ám sát René Bazin năm 1929, QDÐ phải cải tổ.

III. Hoạt Ðộng Của Việt Nam Quốc Dân Ðảng

1. Kiếm cách hợp nhất các đảng phái : Cơ quan tuyên truyền của đảng là báo Hồn Cách Mạng, in thạch bản, phát hành hạn chế và bí mật vì phải giữ an toàn cho đảng, nên chỉ ra được vài số rồi ngưng vào đầu năm 1929.(12) Một trong những việc làm đầu tiên của tổng bộ lâm thời là kiếm cách liên kết thống nhất với các đảng phái khác để xây dựng một đảng mới vững mạnh khả dĩ đương đầu với chính quyền Pháp. Quyết định nầy được đưa ra sau cuộc họp thường lệ của ban chấp hành lâm thời tổng bộ vào ngày 7-4-1928. Tổng bộ VNQDÐ đã cử Hoàng Văn Tùng liên lạc với Tân Việt Cách Mạng Ðảng, hậu thân của đảng Phục Việt, và cử Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc giao thiệp với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội. Ðại biểu các đảng họp với nhau nhiều lần nhưng không đạt được kết quả nào, nghĩa là không đi đến sự thống nhất được. Ðối với Tân Việt Cách Mạng Ðảng, đảng của Nguyễn Thái Học đòi thống nhất dưới tên VNQÐD;(13) còn Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội đòi đặt tổng bộ lãnh đạo ở nước ngoài để khỏi bị Pháp lùng bắt, trong khi VNQÐD chủ trương phải để tổng bộ ở trong nước để nắm vững tình hình hoạt động, gần gũi và chia xẻ bổn phận và trách nhiệm với đảng viên và quần chúng.(14) Cuối cùng không bên nào chịu nhường bên nào, nên các đảng tiếp tục hoạt động riêng lẻ.

VNQDÐ tổ chức đại hội bầu ban chấp hành tổng bộ nhiệm kỳ 2 vào ngày 1-7-1928, tại nhà Nguyễn Ngọc Sơn ở Gia Lâm, Hà Nội vì theo điều lệ, cứ mỗi sáu tháng bầu lại ban chấp hành một lần. Nguyễn Thái Học tái đắc cử chức chủ tịch. Nguyễn Thế Nghiệp và Ðặng Ðình Ðiển rút lui khỏi ban chấp hành để lo nhiệm vụ khác.(15) Lần nầy có trung sĩ không quân Trần Văn Môn được cử làm trưởng ban binh vụ còn bỏ trống từ nhiệm kỳ lâm thời.

2. Thành lập khách sạn Việt Nam : Trong phiên họp thường lệ ngày 7-8-1928, ban chấp hành tổng bộ nhiệm kỳ 2 quyết định thành lập tại Hà Nội một khách sạn lấy tên là “Khách sạn Việt Nam” để kinh tài và làm nơi liên lạc cho đảng. Vì ngân quỹ eo hẹp, VNQDÐ phải vay thêm tiền của ông Mai Du Lân, chủ nhiệm Thực Nghiệp Dân Báo, và của một người bà con ông Lê Thành Vị, mới đủ tiền thuê nhà của Thuận Thành Ký, số 38 phố Hàng Bông Ðệm làm trụ sở.

Khách sạn Việt Nam chính thức khai trương ngày 30-9-1928. Ban đầu, khách sạn khá đông khách vì giá ở đây rẻ, thức ăn ngon, tiếp đãi ân cần. Rất tiếc khi khách sạn mở ra, nhà cầm quyền Pháp biết ngay mục đích của cơ sở nầy, nên cho người bí mật theo dõi. VNQDÐ cũng biết điều nầy nên chỉ dùng cơ sở nầy làm kinh tài và liên lạc chứ hoàn toàn không tổ chức hội họp ở đây hoặc để lại bút tích giấy tờ. Không bắt được chứng cớ gì, sở mật thám Pháp liền phao tin rằng khách sạn Việt Nam là nơi kinh tài cho hội kín, làm cho nhiều người sợ liên lụy, ít dám lui tới đó nữa.

3. Liên lạc với Phan Bội Châu : Vào tháng 10-1928, Ðặng Ðình Ðiển được tổng bộ cử vào Huế vấn an Phan Bội Châu đang bị Pháp an trí tại đây, mời ông Phan giữ chức “Chủ tịch Danh dự Việt Nam Quốc Dân Ðảng”, và nhờ ông Phan giúp hai việc: 1) Yêu cầu ông Phan dùng uy tín và đạo đức cá nhân thuyết phục để thống nhất các đảng phái. 2) Yêu cầu ông Phan giúp đỡ về ngoại giao vì ông Phan quen biết nhiều với các chính khách ngoại quốc.

Phan Bội Châu vui vẻ nhận lời. Trước khi chia tay, Phan Bội Châu giao cho Ðặng Ðình Ðiển một tấm danh thiếp phía sau đề bốn chữ “Khả dĩ đoạn kim ” (nghĩa là: có thể cắt vàng), để khi tổng bộ QDÐ cử người liên lạc, thì cầm tấm danh thiếp làm tin.(16) Phan Bội Châu lúc đó là một nhà chính trị uy danh cả trong lẫn ngoài nước. Sự hỗ trợ tinh thần của ông chứng tỏ ông đồng ý với đường lối của VNQDÐ, và hơn thế nữa, sự hỗ trợ nầy có thể hiểu là Phan Bội Châu thừa nhận Nguyễn Thái Học và những đồng chí của ông là những người kế thừa sự nghiệp giải phóng dân tộc của ông Phan. Nhờ thế, chỉ trong vòng vài năm, VNQDÐ đã phát triển mạnh mẽ rộng khắp mọi miền đất nước.(17)

4. Phát triển đảng : Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba ngày 9-12-1928, Nguyễn Thái Học xin từ chức chủ tịch đảng. Theo đúng điều lệ, đại hội lần nầy bầu ba cơ quan độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học đắc cử chức chủ tịch và phó chủ tịch lập pháp; Nguyễn Thế Nghiệp và Lê Xuân Hy đắc cử chủ tịch và phó chủ tịch hành pháp. Ban tư pháp chưa cần thiết nên chưa được bầu. Tổng bộ mới quyết định mở rộng quan hệ ngoại giao, cử người vào Huế nhờ Phan Bội Châu viết thư giới thiệu để các phái bộ sang Trung Hoa, Nhật Bản tìm cách liên lạc với các đảng cách mạng bạn.

Trong phiên họp nầy, Nguyễn Ngọc Sơn báo cáo cho biết đã liên lạc với nhóm Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn nhưng thất bại.(18) Ngược lại, một chi bộ đặc biệt đã được thành lập tại Sài Gòn, và sáu chi bộ tại miền Ðông và miền Tây Nam Kỳ, trong đó có nhiều người được võ trang.

Chi bộ đặc biệt tại Sài Gòn gồm có Trần Huy Liệu, chi bộ trưởng,(19) Ðỗ Xuân Viên, Nguyễn Hòa Hiệp, Nguyễn Phương Thảo, Võ Công Tồn tức Hội đồng Tồn, Nguyễn Hiền Lương, Cao Hữu Tạo, Phạm Hoài Xuân, và Hà Thuận Hồng.

Theo tài liệu của sở Mật thám Ðông Dương, vào cuối năm 1928, trên toàn quốc VNQDÐ đã thành lập được 120 chi bộ, kết nạp được khoảng 1.500 đảng viên, trong số đó có 120 người thuộc giới quân sự.(20)

5. Vụ ám sát René Bazin : Vào đầu thế kỷ 20, tại Bắc Kỳ, Pháp cho tổ chức mộ phu để cung ứng cho các đồn điền ở nam Ðông Dương cũng như cao nguyên nam Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cambodge (Cambodia), và các đồn điền ở Nouvelle Calédonie (Tân Thế Giới), một thuộc địa Pháp ở tây nam Thái Bình Dương. Tay trùm mộ phu người Pháp nổi tiếng độc ác nhất lúc bấy giờ là René Bazin. Một khi đã được mộ, những người phu nầy bị xem như là nô lệ, bị bóc lột và hành hạ tàn nhẫn. Ngoài những mánh khóe tuyên truyền, lừa bịp, dụ dỗ, phỉnh gạt để mộ người, Bazin còn cho thủ hạ tìm cách bắt cóc thêm nhiều thanh thiếu niên đem xuống Hải Phòng, bỏ lên tàu gởi đi các nơi.

Trước tình cảnh nầy, đảng viên QDÐ trong các xí nghiệp Hà Nội cử Nguyễn Văn Viên, uỷ viên Thành bộ Hà Nội, đến gặp các nhà lãnh đạo Tổng bộ, yêu cầu ra lệnh xử tử tên Bazin. Nguyễn Thái Học không đồng ý. Ông cho rằng nếu vội vã giết Bazin, nhà cầm quyền Pháp sẽ lập tức trả thù, khủng bố dữ dội, và kiếm cách bắt hết các đảng viên thì đảng sẽ tan rã. Ông yêu cầu các đảng viên phải bình tĩnh chờ đợi thời cơ thuận tiện lật đổ người Pháp thì vụ Bazin tự nhiên giải quyết. Khi Nguyễn Văn Viên trình bày lại ý kiến nầy với các chi đoàn, thì họ vẫn yêu cầu cấp trên cứu xét lại.

Trong khi đó, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội rải truyền đơn chống việc buôn bán nô lệ của Bazin. Ðể cạnh tranh với Ðồng Chí Hội và gây niềm tin trong giới công nhân nhắm phát triển đảng, tuy không được sự chấp thuận của tổng bộ, Nguyễn Văn Viên tự động theo dõi René Bazin. Nhân dịp Tết cổ truyền năm kỷ tỵ (1929), dân chúng đi lại mua bán đông đúc và đốt pháo ồn ào, Nguyễn Văn Viên cùng với hai đồng chí là Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Ðức Lung (tức Ký Cao) quyết định thực hiện cuộc ám sát Bazin.

Vào tối cuối năm mậu thìn (30 Tết), tức 9-2-1929, lúc 8 giờ tối, René Bazin vừa ra khỏi nhà tình nhân là Germaine Carcelle, ở số 110 phố Huế, chợ Hôm, Hà Nội, Nguyễn Văn Viên ra lệnh Nguyễn Ðức Lung đến trao cho Bazin một phong thư, trong đựng bản án tử hình, ngoài bì đề tên Hãng tàu thủy Bạch Thái Bưởi, và Nguyễn Văn Lân tiến đến, bắn hai phát súng kết liễu cuộc đời của tên chúa trùm buôn bán phu thợ.(21)

IV. Pháp Khủng Bố

Sau vụ ám sát nầy, Pháp bắt được một học sinh trường Albert Sarraut tên là Léon Sanh ở số 25 phố Hàng Ðào ngày mồng 4 Tết năm kỷ tỵ (13-2-1929). Trước đó Léon Sanh bị mật thám Pháp bắt quả tang đang rải truyền đơn tố cáo việc mộ phu của Bazin, và bị tòa Tiểu hình Hà Nội kết án sáu tháng tù treo. Do tiền án nầy, khi Bazin bị ám sát, mật thám liền khám xét nhà Léon Sanh. Mật thám tìm được một mẩu giấy nhỏ có ghi số 110, và một lá thư ông viết gởi vào Sài Gòn chưa gởi bưu điện, mà mật thám cho rằng chữ viết giống như tự dạng bản án tử hình Bazin. Bị tra khảo nặng nề, Léon Sanh nhận mình là thủ phạm giết Bazin, và khai một đồng phạm tên Trần Bình Nam, nhưng cảnh sát không tìm ra ai có tên nầy.

Ra trước tòa, theo lời khuyên của luật sư, Léon Sanh cải cung. Cuộc giảo nghiệm của chuyên viên tòa án cho thấy tự dạng lá thư ông viết và chữ viết bản án tử hình Bazin khác nhau. Không có cơ sở để kết tội, Pháp vẫn tuyên bố đã bắt được thủ phạm vụ ám sát Bazin và tống giam Léon Sanh vào ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội.(22)

Do đã được chỉ điểm, ngày 17-2-1929, sở mật thám Pháp bắt một số khá nhiều đảng viên QDÐ. Khi những người nầy bị đưa qua tòa án, biện lý cuộc nhận thấy vấn đề trầm trọng hơn bình thường, nên đã báo cáo thẳng lên phủ toàn quyền. Toàn quyền Pierre Pasquier (23) liền ký nghị định thành lập hội đồng đề hình gồm có:

Chánh hội đồng : Jules Brides, thanh tra hành chánh, chính trị Bắc Kỳ (24)
Uỷ viên: Nicolas, biện lý, Delsalle, đốc lý Hà Nội, Guet, đại uý
Lục sự: Arnoux Patrich
Thông ngôn: Hoàng Hữu Phương

Số đảng viên QDÐ bị bắt giam lên tới 227 người,(25) nhưng trước khi hội đồng đề hình quyết định xét xử công khai ngày 2-7-1929, 149 người được thả, chỉ còn 78 người phải ra tòa.

Xét xử 78 người mà phiên tòa chỉ kéo dài từ 8 giờ sáng ngày 2-7 và kết thúc lúc 8 giờ tối 3-7, nghĩa là chỉ trong vòng hai ngày làm việc. Trong bản cáo trạng, có đoạn viết: ” …Các giáo viên, công chức, các binh sĩ là những cây cột chống đỡ mái nhà Ðông Dương. Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã làm lay chuyển ba cây cột ấy. Nguy hiểm hơn nữa là những kẻ được họ rủ rê, vào thì vào, không vào cũng không một ai tố cáo với các nhà đương cuộc. Sự im lặng đó khác nào đồng lõa…”(26)

Sau khi nghe các bị can khai báo và luật sư biện hộ, hội đồng đề hình tuyên án như sau:
– 2 người trắng án (26a)
– 3 người bị kết án vắng mặt (26b)
– 26 người án tù treo từ 2 đến 5 năm (26c)
– 47 người án tù cấm cố từ 2 đến 15 năm (26d)

Ngoài án tù, mỗi người phải chịu thêm 5 năm biệt xứ. Những người bị kết án bị đưa đi phát vãng kể từ 24-8-1929 tại các ngục thất ở mạn thượng du Bắc Kỳ, và 23 người bị đày ra đảo Côn Lôn.(27)

Về phần VNQDÐ, Nguyễn Thái Học và tổng bộ cho thanh trừng những kẻ phản đảng làm chỉ điểm cho Pháp, như Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Ngọc, Phạm Thành Dương (tức Ðội Dương). Ðồng thời, Nguyễn Thái Học và tổng bộ cải tổ đảng, tu chính điều lệ trong đại hội đại biểu toàn quốc vào giữa tháng 5-1929 tại làng Ðức Hiệp, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Theo điều lệ mới, mục đích của VNQDÐ không thay đổi, nhưng tổ chức và chương trình hành động được sửa đổi cho hợp với hoàn cảnh mới. Từ nay, về tổ chức, cơ quan lãnh đạo tối cao của đảng là Tổng bộ Chiến tranh, mỗi chi bộ không quá mười người, mà phải là những người hăng say tư tưởng cách mạng, khi thuận tiện, các chi bộ biến thành “Nhóm chiến đấu”. Chương trình hành động trở nên gấp rút nên đại hội quyết định tổng khởi nghĩa trong thời gian ngắn sắp đến.

Ðể chuẩn bị công cuộc khởi nghĩa, ngoài việc phát triển thêm những chi bộ chiến đấu, QDÐ còn ra lệnh tổ chức sản xuất vũ khí để trang bị nghĩa quân. Chẳng may, một số đảng viên không giỏi kỹ thuật sản xuất đã làm cho nhiều trái bom phát nổ, khiến mật thám Pháp đến bắt, đồng thời một số người phản bội chỉ điểm cho Pháp chỗ chôn giấu vũ khí. Số thiệt hại nầy lên khá cao. Theo thống kê của Pháp, từ cuối tháng 10 năm 1929 đến tháng 1-1930, mật thám Pháp đã khám phá được trước sau là 70 địa điểm chôn giấu vũ khí, truyền đơn, cờ xí, quân phục của QDÐ trên các tỉnh ở Bắc Kỳ.

V. Cuộc Tổng Khởi Nghĩa Thất Bại

Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, và Phó Ðức Chính bị mật thám vây bắt hụt tại làng Võng La, tổng Hạ Bì, huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) ngày 8-12-1929. Tuy nhiên, để qua mặt Pháp, các ông lại triệu tập đại hội ngay tại Võng La ngày 26-1-1930, gồm khoảng 20 đại biểu các tỉnh miền Trung du Bắc Kỳ. Sau khi kiểm điểm tình hình, Nguyễn Thái Học tuyên bố:

“… Người ta bảo: cần phải đứng trước ở chỗ không thua! Nhưng chúng ta thì đứng trước ở chỗ thua mất rồi! Thế nhưng liệu chúng ta hãy hoãn để tổ chức lại rồi mới đánh có được không? Tôi tin rằng không thể được! Cuộc đời là cả một canh bạc, gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch hết cả vốn. Gặp thời thế không chiều mình, đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã xen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi của sẽ không tiếp, người sẽ bị bắt lần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để lại cái gương hy sinh phấn đấu cho người sau nối bước. Chúng ta “không thành công thì thành nhân”, có gì mà ngần ngại. ” (28)

Nguyễn Thái Học trình bày xong, một đảng viên tên là Trần Hải tiếp lời:

“Chúng ta có cả ngàn chi bộ dân sự, 4, 5 trăm chi bộ nhà binh, cùng sự ủng hộ của đồng bào, lực lượng chúng ta không đến nỗi yếu kém! Chúng ta đã đứng vào cái thế cưỡi cọp, không thể lùi bước được nữa! Tôi đề nghị đảng ta ra lệnh tổng khởi nghĩa.(29)

Khi hỏi ý kiến để lấy quyết định chung, toàn thể những người có mặt trong hội nghị Võng La đều biểu quyết đồng tâm tổng khởi nghĩa, nhưng hội nghị nầy chỉ bàn thảo kế hoạch thực hiện ở Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ và Yên Bái. Những tỉnh trung du nầy đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khắc Nhu.

Sau đó một hội nghị khẩn cấp khác được Nguyễn Thái Học triệu tập tại làng Mỹ Xá, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, mới phân công kế hoạch khởi nghĩa ở Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Ðáp Cầu, Phả Lại. Các tỉnh miền đồng bằng do Nguyễn Thái Học điều động. Riêng tỉnh Sơn Tây do Phó Ðức Chính phụ trách. Tại Hà Nội, QDÐ xét thấy chưa đủ thực lực để khởi nghĩa, nên chỉ giao cho Ðặng Trần Nghiệp tức Ký Con (30) chỉ huy đoàn quân cảm tử làm nghi binh để cầm chân quân Pháp.

Ngày trọng đại được chọn là tối mồng 9 rạng mồng 10-2-1930. Các nhà lãnh đạo chọn ngày nầy để khởi nghĩa vì mồng 10-2 dương lịch là mồng 1 Tết âm lịch năm canh ngọ. Nhân dịp Tết cổ truyền, dân chúng thường đi lại mua bán tấp nập, người Việt Nam lại có tập tục đốt pháo để mừng xuân, là cơ hội thuận tiện cho việc chuyển quân và vũ khí được dễ dàng. Tuy nhiên, vào phút chót, vì sự liên lạc khó khăn, việc tập họp đảng viên gặp trở ngại nên các tỉnh miền đồng bằng như Hải Dương, Hài Phòng, Kiến An cử người tìm gặp Nguyễn Thái Học, xin hoãn cuộc tổng khởi nghĩa đến ngày 15-2-1930. Nguyễn Thái Học liền phái người báo cho Nguyễn Khắc Nhu, nhưng đã quá trễ nên nhiều nơi vẫn nổi lên tối mồng 9-2. Một điều cần ghi nhận cuối cùng là trước ngày khởi nghĩa, đảng Cộng Sản Ðông Dương rải truyền đơn tố cáo Việt Nam Quốc Dân Ðảng sắp tấn công Bắc Kỳ; cô Giang đưa cho Nguyễn Thái Học xem truyền đơn nầy, nhưng Nguyễn Thái Học “lấy lòng quân tử đo bụng tiểu nhân”, không tin là những người cộng sản lại có thể làm như vậy được.(31)

1. Tấn công Yên Bái

Cuộc tấn công Yên Bái do Nguyễn Văn Khôi (Thanh Giang), Nguyễn Nhật Thân cùng cai khố đỏ Ngô Hải Hoằng (Cai Hoằng) chỉ huy. Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang lo chuyển vận vũ khí và tiếp tế đạn dược. Số đảng viên huy động từ các vùng lân cận về Yên Bái lên đến khoảng 300 người. Cơ sở quân sự của Pháp tại Yên Bái gồm hai trại: trại dưới nằm ở ngọn đồi trong thành phố do đại uý Jourdain chỉ huy, trại trên tọa lạc trên ngọn đồi xa thành phố, gọi là đồn cao, do thiếu tá Le Tacon chỉ huy.

Lúc 1 giờ sáng 11-2, Ngô Hải Hoằng ra lệnh tấn công trại dưới, giết đại uý Jourdain, trung uý Robert, bốn trung sĩ Pháp, và hoàn toàn làm chủ tình thế lúc 4 giờ sáng. Nghĩa quân chuẩn bị tấn công đồn cao thì máy bay Pháp từ Hà Nội lên phản công. Nghĩa quân phải rút lui vào rừng. Chiều 11-2, Pháp xử tử tại chỗ hai cấp chỉ huy nghĩa quân bị Pháp bắt là Cai Nguyên, và Cai Tính.

2. Tấn công Hưng Hóa, Lâm Thao

Cuộc tấn công nầy do Nguyễn Khắc Nhu (1883-1930) chỉ huy. Nguyễn Khắc Nhu, còn gọi là Xứ Nhu vì trong một kỳ thi, ông đậu đầu xứ tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang, sinh quán của ông. Lúc 1 giờ sáng 11-2, Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh tấn công và xung phong vào đồn Hưng Hóa, nhưng bên trong phòng thủ chặt chẽ nên không chiếm được. Ðến 3 giờ sáng, Nguyễn Khắc Nhu đổi hướng tấn công, đánh chiếm phủ Lâm Thao. Tri phủ Ðỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Quân Pháp từ Phú Thọ tiến qua đánh trả. Nguyễn Khắc Nhu bị trọng thương, dùng lựu đạn tự sát nhưng không chết. Ông bị Pháp bắt, bèn tự tử ngay liền trong nhà giam Hưng Hóa.

3. Chuẩn bị đánh Sơn Tây

Sau khi thất bại ở yên bái, Phó Ðức Chính (1897-1930) trốn thoát về Sơn Tây. Ngày 13-2, Phó Ðức Chính cùng Cai Tân, Nguyễn Văn Khôi (Thanh Giang) họp tại nhà Quản Trạng, xã Nam Man, tổng Cẩm Hương, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây, để chuẩn bị lực lượng tấn công tỉnh nầy, thì bị quân Pháp đến bắt tất cả giải về Hà Nội, vì có kẻ chỉ điểm.

4. Quấy rối Hà Nội

QDÐ tự xét thực lực ở Hà Nội không đủ sức nổi dậy nên chỉ quấy rối đe dọa nhà cầm quyền Pháp mà thôi. Ðược tin Yên Bái khởi nghĩa, Lương Ngọc Tốn trong ban ám sát của QDÐ, tấn công viên đội cảnh sát gác cầu Long Biên. Ðặng Trần Nghiệp (Ký Con) và một số đảng viên chia nhau đi cắt đường dây điện thoại, ném bom vào một số cơ sở như ngục thất Hỏa Lò, trụ sở cảnh sát…

Những hoạt động nầy không mấy hiệu quả và cũng ít gây tiếng vang. Ngược lại, nhà cầm quyền Pháp báo động khắp nơi, việc phòng thủ càng thêm chặt chẽ làm cho cuộc nổi dậy trở nên khó khăn hơn. QDÐ chuẩn bị tấn công Ðáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, nhưng cuối cùng phải thoái lui vì lực lượng tập họp không đầy đủ đúng hạn, và cũng vì quân Pháp biết trước, canh phòng cẩn mật, phá vỡ những chỗ chôn cất vũ khí, và chận bắt các đảng viên.

5. Tấn công Phụ Dực, Vĩnh Bảo

Lúc 8 giờ tối, Hòa Quang Huy, Ðào Văn Thê (Giáo Thê) cùng Nguyễn Văn Hộ chỉ huy 40 đảng viên võ trang đánh úp huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Viên tri huyện trốn thoát. Nghĩa quân tịch thu được một số khí giới, tập họp dân chúng để tuyên truyền. Sáng hôm sau, nghĩa quân dự trù kéo qua đánh Ninh Giang (Hải Dương), nhưng đợi mãi không thấy các cánh quân khác, nên cuối cùng tự giải tán.

Tại Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, ngày 15-2, nghĩa quân cử Trần Quang Diệu giả đến mật báo cho tri huyện Hoàng Gia Mô (cháu nội Hoàng Cao Khải) có một số quân cách mạng hội họp ở làng Cổ Am. Hoàng Gia Mô lo sợ liền đi báo đồn Pháp ở Ninh Giang (tỉnh Hải Dương). Họ Hoàng đi khỏi, nghĩa quân liền vào chiếm huyện lỵ Vĩnh Bảo mà không gặp sức kháng cự nào. Trong khi đó, trưởng đồn Ninh Giang cấp cho Hoàng Gia Mô sáu lính khố xanh, sáu súng trường và một số đạn. Họ Hoàng khôn ngoan cho xe chở lính về trước để thăm dò còn tự mình đi xe kéo tay theo sau. Xe chở lính bị tấn công, họ Hoàng biết được liền lẩn trốn, nhưng rồi cũng bị bắt, và bị nghĩa quân kết án tử vì tội tham ác. Thi hành xong bản án trên, nghĩa quân rút lui êm thấm.

VI. Phản Ứng Của Pháp

Nhà cầm quyền Pháp tại Bắc kỳ phản ứng giận dữ trước các cuộc tấn công của VNQDÐ. Tại Hà Nội, Pháp đóng cửa các công sở ngày 11-2, cho quân đội vũ trang đứng gác khắp các ngả đường, khám xét người qua lại. Pháp tăng phái quân đội đi cứu viện những tỉnh bị tấn công, gởi máy bay lên Yên Bái đẩy lui nghĩa quân ngày 11-2. Ngày 12-2, toàn quyền Pierre Pasquier dùng xe lửa lên Yên Bái dự tang lễ các sĩ quan Pháp bị giết trong cuộc khởi nghĩa của QDÐ. Trước khi xe lửa chở y đến Yên Bái khoảng 20 phút, hai trái bom được liệng vào phá sập một phần nhà ga.

Ngày 16-2 Pháp cho năm phóng pháo cơ đến ném 57 quả bom loại 10 ký xuống khắp làng Cổ Am, đốt cháy rụi làng nầy, làm cho 21 thường dân thiệt mạng. Vào lúc bấy giờ, vũ khí chưa tân tiến như ngày nay, việc máy bay ném bom đốt làng là một cuộc tấn công vô cùng ghê gớm chưa từng thấy ở Việt Nam, làm cho mọi người khiếp đảm.

Thống sứ Bắc Kỳ René Robin (32) gởi điện tín cho công sứ Pháp ở các tỉnh, trong đó có đoạn: “…Village Coam, province de Haiduong, où s’ était réfugiée bande rebelles ayant mis à mort sous préfêt de Vinhbao, a été bombardé hier par escadrille Hanoi. Vous prie donner large publicité et ajoute que tout village qui se mettra dans situation analogue subira impitoyablement le même sort.” (33) (tạm dịch:”….Làng Cổ Am, tỉnh Hải Dương, nơi bọn cướp ẩn trốn sau khi giết viên tri huyện Vĩnh Bảo, ngày hôm qua đã bị một tiểu phi đội Hà Nội đến dội bom. Yêu cầu các ông thông báo rộng rãi, và thêm rằng bất cứ làng nào làm như thế, đều sẽ chịu chung số phận không thương xót.”)

Ngoài Cổ Am, Pháp còn cho quân đến đốt phá các làng mà Pháp nghi ngờ có sự hiện diện của QDÐ. Pháp cho người lùng bắt gắt gao đảng viên QDÐ cũng như tất cả những ai liên hệ đến QDÐ.

Một điều bất lợi cho QDÐ là các lãnh tụ đảng dần dần bị bắt. Những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa cử Ðoàn Kiểm Ðiểm về nước quan sát tình hình, và mời Nguyễn Thái Học sang Trung Hoa lánh nạn một thời gian. Những đồng chí của Nguyễn Thái Học cũng khuyên ông nên ra nước ngoài, nhưng ông Nguyễn cương quyết từ chối đề nghị nầy, vì ông cho rằng ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những biến động vừa qua, nên ông quyết ở lại trong nước lo cải tổ và xây dựng lại đảng, để làm tròn sứ mạng phục quốc.

Sau cuộc họp tại làng Trụ Thôn, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Thái Học tiếp tục lên đường đi công tác, cùng một số đồng chí ngang qua đồn điền người Pháp tên Clébert ở làng Cổ Vịt huyện Ðông Triều tỉnh Hải Dương, thì bị các tuần phu bắt sáng ngày 20-2-1930. Nguyễn Thái Học bị đưa đến tòa sứ Hải Dương, rồi về Hà Nội. Trần Quang Diệu bị bắt vào tháng 5-1930 tại Thái Nguyên.

Về phần Ký Con Ðặng Trần Nghiệp, ông bị người Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội, phải xuống Hải Phòng trốn tránh. Tại đây cũng không được yên, Ký Con đến Nam Ðịnh, và bị mật thám Pháp bắt vào giữa tháng 6-1930. Về sau, theo nguồn tin của một nhân viên sở mật thám Nam Ðịnh, ông Phán Tảo, thì chính một đảng viên Ðông Dương Cộng Sảng Ðảng đã chỉ điểm cho viên giám đốc nha Liêm Phóng Ðông Dương là Louis Marty; Marty liền ra lệnh cho mật thám Hà Nội xuống Nam Ðịnh bắt Ký Con, mà sở mật thám Nam Ðịnh không hay biết.(34)

Sau khi Ký Con bị vào tù, những đảng viên còn lại đã họp nhiều lần để cải tổ đảng, nhưng rồi những nhà lãnh đạo cũng lần lượt bị người Pháp bắt như Lê Hữu Cảnh (tạm quyền lãnh đạo đảng), Lê Thị Thành, Nguyễn Xuân Huân (tháng 7-1930 tại Hải Phòng), Lê Tiến Sự, Nguyễn Ðôn Lâm, Phạm Văn Hể, Nghiêm Toản,(35) (tháng 8-1930), Hoàng Ðình Gị, Hoàng Ðình Vỹ, Ðỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Vân, Trần Xuân Ðộ (tháng 9-1930)…

VII. Những Bản Án Của Hội Ðồng Ðề Hình

Ngày 14-2-1930, nghĩa là 4 ngày sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, toàn quyền Pierre Pasquier ký nghị định thành lập hội đồng đề hình do Poulet Osier, thanh tra chính trị hành chánh Bắc Kỳ, làm chánh án.

1. Ngày 27-2-1930 tại Yên Bái : Hội đồng làm việc gấp rút, và họp phiên tòa đầu tiên vào ngày 27-2-1930 tại Yên Bái, đưa ra xét xử 15 bị cáo. Kết quả, hội đồng nầy đã tuyên án: một người 20 năm khổ sai, một người chung thân khổ sai, và 13 người bị tử hình. Ðệ trình bản án về Paris, trong số 13 án tử hình, tổng thống Pháp Gaston Doumergue (nhiệm kỳ 1924-1931) giảm chín án xuống chung thân khổ sai, còn bốn người y án tử hình, và bị lên máy chém tại Yên Bái sáng sớm ngày 8-3-1930 (tức mồng 9-2 canh ngọ). Bốn anh hùng đó gồm hai nông dân, quán làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao tỉnh Phú Thọ là Ðặng Văn Lương và Ðặng Văn Tiệp, và hai hạ sĩ quan thuộc binh đoàn Yên Bái là Nguyễn Thanh Thuyết và Ngô Hải Hoằng.

2. Ngày 23-3-1930 tại Yên Bái : Hội đồng đề hình họp phiên khác cũng tại Yên Bái và cũng do Poulet Osier ngồi ghế chánh án xử 83 bị cáo gồm 1 phụ nữ, 37 thường dân và 45 binh sĩ. Người bị gọi ra thẩm vấn đầu tiên là Nguyễn Thái Học. Nguyễn Thái Học nhận hết trách nhiệm các cuộc khởi nghĩa là do ông lãnh đạo và xin xử tử một mình ông, những người khác chỉ thừa hành mệnh lệnh của ông. Nguyễn Thái Học định nói nhiều nữa về lý do chính trị cuộc khởi nghĩa, nhưng bị cắt ngang. Phó Ðức Chính tự nhận mình là uỷ viên tuyên truyền của QDÐ, tự tay thảo truyền đơn kêu gọi binh sĩ làm cách mạng, đưa ra kế hoạch tấn công, còn những người khác chỉ nghe theo lời ông mà thôi. Nguyễn Thị Bắc phản đối phiên tòa kịch liệt và nói rằng nếu người Pháp xét xử cô thì hãy về Pháp kéo đổ tượng Jeanne d’ Arc (36) xuống. Các chiến sĩ ra trước tòa đều can đảm xác nhận gia nhập QDÐ để đánh đuổi người Pháp, giành độc lập cho xứ sở.

Bốn luật sư biện hộ Mandrette, Bona (người đã từng biện hộ cho Phan Bội Châu), Mayet, và Demistre yêu cầu tòa chỉ buộc tội những người chủ mưu, và khoan thứ cho những người tòng phạm. Hôm sau 24-3-1930, lúc 10 giờ, hội đồng đề hình tuyên án 39 tử hình, 33 khổ sai chung thân, 9 khổ sai 20 năm, 5 người bị đi đày trong đó Nguyễn Thị Bắc bị 5 năm. Nguyễn Thái Học đã chống án lên Hội đồng bảo hộ để các đồng chí của ông làm theo, nhắm làm nhẹ bớt án cho những người nầy. Riêng Phó Ðức Chính cương quyết không ký tên chống án, nói thẳng với viên chánh án:”Ðại sự đã không thành, chết là vinh, còn chống án làm gì vô ích! “(37)

Trong nhà tù, Nguyễn Thái Học viết thư bằng chữ Pháp gởi cho quốc hội Pháp, và cho viên toàn quyền Ðông Dương. Lá thư gởi quốc hội Paris bị chận lại. Ký giả Louis Roubaud đã tóm lược lá thư nầy, sau đây là bản dịch:

“Quý vị nghị sĩ,

Theo lẽ công bằng: mọi công dân đều có quyền muốn đất nước mình được tự do. Theo tinh thần nhân bản: mọi cá nhân đều phải có bổn phận cứu giúp đồng bào cực khổ.

Tôi thấy gì? Từ hơn sáu mươi năm nay, tổ quốc tôi bị lệ thuộc người Pháp. Ðồng bào tôi quằn quại dưới sự cai trị của các ông, dòng giống chúng tôi bị đe dọa tiêu diệt. Vậy tôi có quyền và có bổn phận bảo vệ quê hương tôi và đồng bào tôi.

Ðể đạt đến mục đích nầy, tôi đã từng nghĩ cách hợp tác với các ông. Những thất bại liên tục đã cho tôi thấy rằng người Pháp không thực tâm muốn hợp tác, và tôi không bao giờ có thể phục vụ đồng bào tôi chừng nào các ông còn làm chủ quê hương tôi.

Do đó, vào năm 1927, tôi đã đứng ra tổ chức một đảng quốc gia Việt Nam với mục đích: 1) đánh đuổi người Pháp ra khỏi lãnh thổ; 2) thành lập một chính quyền cộng hòa thật sự dân chủ.

Cá nhân tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những biến cố chính trị do tôi tổ chức diễn ra trên quê hương tôi kể từ thời điểm đó. Chỉ cá nhân tôi thực sự là thủ phạm, tử hình tôi là đủ rồi. Tôi xin hãy ân giảm cho những người khác.

Nói như vậy, tôi báo cho các ông biết rằng nếu người Pháp muốn chiếm đóng Ðông Dương một cách yên ổn, không bị bất cứ một phong trào cách mạng nào quấy rối, thì người Pháp phải: 1) Từ bỏ những phương pháp bạo lực vô nhân đạo; 2) Cư xử một cách thân hữu với người Nam; 3) Cố gắng giảm thiểu những khổ nạn tinh thần và vật chất bằng cách khôi phục lại cho người Nam những quyền cá nhân phổ thông: tự do đi lại, tự do học hành, tự do hội họp, tự do báo chí; 4) Ðừng dung dưỡng những công chức ăn hối lộ cũng như những tật xấu của họ; 5) Giáo hóa dân, phát triển thương mại và kỹ nghệ bản xứ.

Xin quý vị nghị sĩ nhận nơi đây sự kính trọng của tôi.

Kẻ thù của các ông,
Nhà cách mạng Thái Học”(38)
Bản án của hội đồng đề hình ngày 24-3-1930 được đệ trình về Paris. Tổng thống Gaston Doumergue giảm 26 án tử hình ra khổ sai chung thân, còn giữ lại 13 án tử hình. Chiều ngày 16-6-1930, mười ba tử tù được chuyển trại, chuẩn bị lên đường thọ hình. Trước khi rời Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học vừa đi vừa hô to: “Chúng tôi đi trả nợ nước đây. Các anh em còn sống cứ công nào việc ấy nhé! Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu! Hoa tự do phải tưới bằng máu! Tổ quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều nữa, nhiều nữa! Rồi thế nào cách mạng cũng thành công! Thôi kính chào các anh em ở lại…”(39)

Ðoàn tử tù được chở lên Yên Bái vào tối 16-6. Trên đường đi, Phó Ðức Chính nói đùa với anh em: “Chúng ta đến ga Yên Bái, chắc chắn sẽ được các đồng chí Lương, Tiệp, Thuyết, Hoằng, ra đón rước nồng hậu.”[Bốn người nầy đã bị xử tử ngày 8-3-1930 tại Yên Bái.] Còn Nguyễn Thái Học thì tranh luận với linh mục Dronet, được Pháp gởi theo để làm lễ cho những người sắp bị giết. Ông nói: “Chúng tôi có phạm gì đâu mà phải ăn năn thú tội.” Nguyễn Thái Học khẳng khái ngâm mấy câu thơ Pháp: “Mourir pour sa patrie/ C’ est le sort le plus beau/ Le plus digne d’ envie…” (Chết cho Tổ quốc/ Ðó là số phận đẹp đẽ nhất/ Cũng là số phận cao cả ước ao nhất…)(40)

Sau đây là thứ tự mười ba liệt sĩ VNQDÐ đã lên máy chém tại Yên Bái từ 5 giờ sáng 17-6-1930:
– Bùi Tử Toàn, 37 tuổi, nông dân, sinh quán làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
– Bùi Văn Chuẩn, 35 tuổi, thuộc binh đoàn Yên Bái (của Pháp)
– Nguyễn An, 31 tuổi, thuộc binh đoàn Yên Bái
– Hà Văn Lạo, 25 tuổi, thợ hồ
– Ðào Văn Nhít, binh đoàn Yên Bái
– Ngô Văn Du, binh đoàn Yên Bái
– Nguyễn Ðức Thịnh, binh đoàn Yên Bái
– Nguyễn Văn Tiềm, binh đoàn Yên Bái
– Ðỗ Văn Sứ, binh đoàn Yên Bái
– Bùi Văn Cửu, binh đoàn Yên Bái
– Nguyễn Như Liên, tức Ngọc Tĩnh, 20 tuổi, học sinh, quán làng Cao Mại, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
– Phó Ðức Chính
– Nguyễn Thái Học

Trước khi chết, tất cả đều chỉ mới hô được hai tiếng “Việt Nam” thì bị đao phủ thủ giật máy chém hạ xuống chém rơi đầu. Riêng Phó Ðức Chính thì yêu cầu được nằm ngửa để xem lưỡi dao rớt xuống như thế nào.(41)

3. Ngày 26-5-1930 tại Phú Thọ : Poulet Osier chủ trì hội đồng đề hình xét xử 85 bị cáo, trong đó có một phụ nữ là Nguyễn Thị Lùn, người làng Chu Hóa, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Sau ba phiên xử ngắn ngủi, hội đồng đề hình đã tuyên án 85 bị cáo trên đây như sau: 10 tử hình, 27 khổ sai chung thân, 37 cấm cố chung thân, 4 người 20 năm khổ sai, 3 người 20 năm cấm cố (trong đó có Nguyễn Thị Lùn), 1 người 5 năm khổ sai, 2 người bị phạt giam trong nhà trừng giới, 1 người được tha bổng.

Bản án được gởi qua Paris, tổng thống Gaston Doumergue đã giảm năm án tử hình xuống khổ sai chung thân là các ông Bùi Văn Bồi, Nguyễn Ðắc Bằng, Nguyễn Văn Quế, Lê Ðình Cư, Vũ Văn Mô. Năm vị anh hùng lên án tử hình ngày 22-11-1930 tại Phú Thọ:

– Nguyễn Văn Toại tức Ðồ Thúy, 33 tuổi, nguyên quán Lâm Thao, Phú Thọ
– Trần Văn Hợp, nguyên quán Thanh Ba, Phú Thọ
– Phạm Nhận tức Ðồ Ðiếc
– Lê Xuân Huy, 31 tuổi, nông dân, nguyên quán Cổ Pháp, Bất Bạt, Sơn Tây
– Bùi Xuân Mai, nông dân, nguyên quán Cổ Pháp, Bất Bạt, Sơn Tây.

4. Ngày 5-8-1930 tại Hà Nội : Hội đồng đề hình họp tại pháp đình Hà Nội cũng do Poulet Osier ngồi ghế chánh án, xét xử 148 bị cáo. Sau hai ngày làm việc, hội đồng đã tuyên án ngày 9-8 như sau: 10 tử hình, 11 khổ sai chung thân, 4 khổ sai 10 năm, 2 cấm cố 10 năm, 3 người 5 năm tù ở, 116 bị phạt lưu chung thân, 2 phạt lưu 5 năm.

Gởi qua Paris, tổng thống Pháp Gaston Doumergue đã giảm ba án tử hình xuống còn khổ sai chung thân là các ông Nguyễn Bá Tâm, Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng. Bảy tử tù còn lại lên máy chém đặt trước cổng ngục thất Hỏa Lò vào cuối năm 1930. Ðó là các liệt sĩ: Ðặng Trần Nghiệp tức Ký Con, Lương Ngọc Tốn tức Chánh Tốn, Nguyễn Văn Nho (em ruột Nguyễn Thái Học), Nguyễn Quang Triều, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Trọng Bằng, Phạm Văn Khuê tức Cai Khuê.

5. Ngày 7-11-1930 tại Hải Dương : Với chánh án Poulet Osier, hội đồng đề hình bắt đầu xử tại Hải Dương 193 bị cáo liên hệ đến cuộc nổi dậy ở Phụ Dực và Vĩnh Bảo. Sau bảy ngày, hội đồng đã tuyên án: 8 tử hình, 28 khổ sai chung thân, 1 cấm cố chung thân, 87 người lưu đày không kỳ hạn (trong đó có Lê Thị Thành), 20 khổ sai 20 năm, 7 khổ sai 15 năm, 1 tù treo 5 năm, 30 phát vãng 20 năm, 3 phát vãng 15 năm, 8 tha bổng. Tổng thống Pháp Gaston Doumergue giảm hai án tử hình qua khổ sai chung thân. Sáu án tử hình còn lại được thi hành cùng ngày 23-6-1931: Trần Quang Diệu, Vũ Văn Giáo tức Lý Giáo, Trần Nhật Ðồng tức Cai Ðồng, Nguyễn Văn Phúc (cựu binh) bị hành hình tại Hải Dương; còn Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân vì là người Hà Nội nên bị đem về giết ở trước cổng ngục thất Hỏa Lò.

6. Ngày 30-1-1931 tại Kiến An : Hội đồng đề hình xuống Kiến An họp trong hai ngày 30 và 31-1-1931, xử 190 bị cáo trong đó có 75 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng, số còn lại thuộc Ðông Dương Cộng Sản Ðảng và một số tổ chức khác. Hội đồng đã tuyên bố trắng án 5 người, trong đó có Nguyễn Văn Lực, và 185 người bị kết án khổ sai có thời hạn, trong đó Vũ Văn Giản (sau là Vũ Hồng Khanh) bị kết án vắng mặt 20 năm khổ sai.

Trong khi chờ đợi đưa đi Côn Ðảo, 9 tù nhân tổ chức vượt ngục, nhưng chỉ một mình Nguyễn Thế Long (đảng viên QDÐ, 20 năm khổ sai) trốn thoát. Ðốc lý Hải Phòng liền ra lệnh cùm tất cả các tù nhân còn lại. Ðảng viên QDÐ cùng nhau phản kháng kịch liệt, bị Pháp đàn áp đẵm máu, khiến 4 người chết và 8 người bị thương.

7. Ngày 15-7-1930 tại Sài Gòn : Do những hoạt động rầm rộ của VNQDÐ ở Bắc Kỳ, nhà cầm quyền Pháp ở Sài Gòn theo dõi và bắt hết các uỷ viên trong ban chấp hành chi bộ đặc biệt VNQDÐ Sài Gòn, và đưa ra xét xử trước tòa đại hình Sài Gòn ngày 15-7-1930. Hôm sau, tòa tuyên án: 3 người bị 5 năm cấm cố lưu đày ra Côn Ðảo là Trần Huy Liệu, Cao Hữu Tạo và Nguyễn Phương Thảo,(42) 6 người từ 2 đến 4 năm tù giam tại Hà Tiên là Nguyễn Hòa Hiệp, Nguyễn Hiền Lương, Phạm Hoài Xuân, Hà Thuận Hồng, Võ Công Tồn tức Hội đồng Tồn, Phạm Xuân Viên.

Vụ án Yên Bái năm 1930 tạm kết thúc ở đây. Trước hết, vụ án nầy làm nổi bật vai trò một công cụ pháp lý mới của Pháp là hội đồng đề hình (la commission criminelle). Theo thông cáo của nhà cầm quyền Pháp đăng trên báo Avenir du Tonkin [Tương lai Bắc Kỳ] ngày 2-7-1929 thì: “Hội đồng đề hình được thiết lập do sắc lệnh của tổng thống Pháp ký ngày 26-11-1896, là một tòa án đặc biệt thiết lập thay thế cho tòa án thường để xử những dân bản xứ hay đồng hóa, phạm những khinh hoặc trọng tội, liên quan tới nền an ninh của nền bảo hộ hoặc tới sự mở mang của nền thuộc địa.”(43)

Như vậy hội đồng đề hình chỉ được thành lập ở các nước thuộc địa Pháp, là một tòa án chính trị không nằm trong hệ thống tư pháp dân chủ thông thường theo thể chế phân quyền, mà chỉ là một công cụ xét xử theo quyết định của nhà cầm quyền Pháp ở các thuộc địa. Nói cách khác, chỉ tại nước Pháp mới có pháp lý dân chủ, còn tại các nước thuộc địa là nền pháp lý thực dân. Nhà cầm quyền Pháp bày ra hội đồng đề hình tại các nước thuộc địa nhắm hợp thức hóa các bản án do nhà cầm quyền tự quyết định trước, mục đích tiêu diệt sức đề kháng của người bản xứ. Ðây là mặt trái của lý tưởng “Tự do, công bình, bác ái ” của cách mạng Pháp năm 1789. Khi chiếm các thuộc địa Bắc Phi (Algéria năm 1830, Morocco năm 1850, Tunisie năm 1881) và các thuộc địa Ðông Dương từ năm 1864, chính quyền Pháp thường hô hào khai hóa mở mang, nhưng thật sự chỉ để khai thác thuộc địa, và nhập cảng vào các nước thuộc địa hội đồng đề hình. Ði theo hội đồng nầy là chiếc máy chém tân kỳ do một người Pháp sáng chế (guillotine).(44)

Những thành viên trong hội đồng đề hình do viên toàn quyền Pháp tại Ðông Dương bổ nhiệm. Những thành viên nầy không nhất thiết là người của cơ quan tư pháp, mà do viên toàn quyền tự lựa chọn. Chủ tọa hội đồng đề hình là một viên quan cai trị hạng nhất người Pháp; các hội viên gồm có công sứ địa phương nơi xảy ra vụ việc, viên biện lý có thẩm quyền tại nơi nầy, và một viên sĩ quan cấp bậc đại uý trở lên do viên tướng tư lệnh quân đội Ðông Dương chỉ định. Lục sự hội đồng nầy được chọn lựa trong số các tham tá lục sự tòa thượng thẩm.

Hội đồng đề hình đã được thiết lập để xét xử vụ án Phan Bội Châu năm 1925, nay nhân vụ án Bazin năm 1929, nhà cầm quyền Pháp mới ra thông cáo giải thích lý do sự ra đời của hội đồng nầy, đủ chứng tỏ tình hình chính trị lúc đó trở nên nghiêm trọng.

Sau một năm làm việc, các phiên tòa của hội đồng đề hình đã xét xử khoảng gần 1.000 đảng viên VNQDÐ, đưa đến 35 án tử hình, 145 khổ sai chung thân, đó là chưa kể những anh hùng đã hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ, đã tự sát hay bị tra tấn đến chết, không thể thống kê hết được, và cũng chưa kể những bản án 20 năm trở xuống, cùng với những bản án lưu đày đến các miền rừng thiêng nước độc hay ra hải đảo.

Những bản án của hội đồng đề hình năm 1930 đã đưa thế hệ đầu tiên của VNQDÐ lên máy chém hoặc khổ sai biệt xứ, nhưng ngược lại làm sáng ngời gương hy sinh cao cả của Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông trong VNQDÐ.

Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng lúc đó, về mặt tổ chức nói chung, VNQDÐ chưa hoàn bị để thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa năm 1930, nhưng do hoàn cảnh phải gấp rút hành động, những nhà lãnh đạo VNQDÐ quyết định khởi nghĩa. Nguyễn Thái Học tiên đoán có thể thất bại, nhưng ông vẫn chọn con đường khởi nghĩa công khai chứ không trốn tránh để chờ đợi cơ hội nổi dậy. Ông là một người tân học, nhưng ông còn chịu nhiều ảnh hưởng của truyền thống Nho gia. Ông nghĩ rằng KHÔNG THàNH CÔNG THÌ THàNH NHÂN. Khi quyết định SÁT THÂN THàNH NHÂN (chịu chết để hoàn thành đạo làm người), Nguyễn Thái Học không hy sinh sai đường lạc lối như những người cộng sản đả đã viết. Có lẽ nên thêm ở đây thái độ của đảng Cộng Sản đối với sự hy sinh của những anh hùng Quốc Dân Ðảng. Ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học hy sinh. Hôm sau, người yêu của ông là Nguyễn Thị Giang về làng Thổ Tang (Vĩnh Yên) báo tin cho gia đình Nguyễn Thái Học biết, rồi đến xóm Mới, xã Ðông Vệ, phủ Vĩnh Tường (cùng phủ với Thổ Tang) tỉnh Vĩnh Yên, đứng dưới cây bồ đề, dùng súng lục tự sát, chết theo người yêu. Ai cũng thương tiếc cô Giang và ngưỡng mộ cái chết hào hùng của cô gái Phủ Lạng Thương (Bắc Giang). Ðể dập tắt hào quang nầy, người cộng sản đã viết bài điếu cô Giang trong đó có những câu mỉa mai: “…Chết như chị đáng trách đáng cười, đường sinh tử còn chưa nhận rõ… Tình mà chi, tiết nghĩa mà chi, nỡ đeo đuổi sai đường chính lộ…”(45)

Ai “đáng trách đáng cười”, ai “sai đường chính lộ”, điều đó lịch sử và quốc dân Việt Nam đã phán xét. Riêng Nguyễn Thái Học, dầu không thành công, sự hy sinh của ông và các đồng chí trong QDÐ đã làm tròn đạo làm người đối với tổ quốc đang bị bảo hộ. Sự hy sinh của các anh hùng QDÐ là những viên gạch lót đường tích cực đóng góp vào việc thúc đẩy lịch sử cách mạng Việt Nam tiến dần đến cùng đích giải phóng dân tộc.

Những cuộc khởi nghĩa chống Pháp từ khởi thủy cho đến cuộc nổi dậy Thái Nguyên năm 1917 ở Bắc Kỳ, bao gồm những người thuộc lớp cựu học lớn tuổi. Cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ năm 1930 là cuộc khởi nghĩa đầu tiên được lãnh đạo bởi lớp thanh niên tân học trẻ tuổi, khoảng chừng 18 đến 30. Ðiều nầy chứng tỏ sự thất bại của người Pháp đã bỏ công tổ chức giáo dục, tưởng rằng có thể hướng dẫn thanh niên đi theo con đường của họ, không ngờ những người thuộc thế hệ mới, xuất thân từ các trường cao đẳng Pháp, vẫn nối gót cha ông, quyết chí chống Pháp giành độc lập.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã gây một tiếng vang rất lớn trên chính trường Pháp cũng như ở Việt Nam. Tại Pháp, sinh viên và thợ thuyền tổ chức biểu tình chống đàn áp và tàn sát (massacre) tại Ðông Dương, nổi bật nhất là cuộc mít tin trước điện Elysée (văn phòng tổng thống Pháp) của hơn 100 Việt kiều đưa đến việc Pháp trục xuất 19 du học sinh về nước trong đó có Tạ Thu Thâu (1905-1945), sau nầy là lãnh tụ nhóm La Lutte (Chiến đấu), Trần Văn Thạch (1903-1945), Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), Trần Văn Giàu. Nhiều ký giả và nhà văn Pháp đã lên tiếng chỉ trích chính sách tàn bạo của toàn quyền Pierre Pasquier.(46) – trong nước, tại Hà Nội, sinh viên bí mật lạc quyên giúp đỡ gia đình những người bị kết án.. Một số tờ báo ở Nam Kỳ công khai ca ngợi sự can đảm của những nhà cách mạng như tờ Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn. Nguyễn Thái Học bị Pháp bắt ngày 20-2-1930 và đang khi Pháp sửa soạn đưa ông ra trước hội đồng đề hình thì ngày 6-3-1930, Phụ Nữ Tân Văn đăng một bài giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Thái Học.(47)

Trong sách Con rồng Việt Nam, cựu hoàng Bảo Ðại viết: “Phạm Quỳnh được biết đến sau vụ Yên Bái năm 1930 nhờ bốn bài xã luận đăng trên báo France Indochine ở Hà Nội mà bài đầu tiên nhan đề: “Tiến tới một Hiến pháp”. Ông ta chỉ muốn trở lại cơ cấu tốt đẹp cũ. Nằm trong tinh thần hiệp ước bảo hộ, là nên trả lại cho hoàng gia sự cai trị nội bộ với một Hội đồng dân biểu. Tuy nhiên các thượng thư chỉ chịu trách nhiệm trước Ðức Vua mà thôi. Muốn thực hiện cải cách ấy, cần phải có sự tham gia của phái trẻ và tân học.”(48) Phạm Quỳnh, nguyên quán tỉnh Hải Dương, là tỉnh đã diễn ra những cuộc tấn công của QDÐ ở huyện Vĩnh Bảo, và là nơi có làng Cổ Am bị Pháp dùng máy bay bắn phá đốt hết cả làng. Các bài xã luận của Phạm Quỳnh mà cựu hoàng Bảo Ðại đề cập trên đây, lúc đầu đăng ở báo Pháp, sau đăng trên Nam Phong số 151, tháng 6-1930. Hòa ước ngày 6-6-1884 đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, nhưng triều đình Việt Nam vẫn còn một số quyền nội trị. Những quyền nầy bị người Pháp tước bỏ dần dần, cho đến năm 1925 thì không còn gì cả. Phạm Quỳnh, một nhà hoạt động chính trị ôn hòa, đã yêu cầu người Pháp trở lại hòa ước 1884, trả lại một số quyền nội trị lại cho vua Việt Nam đã bị người Pháp tước bỏ, đồng thời xây dựng cho Việt Nam một hiến pháp làm nền tảng cho công cuộc cai trị quốc gia. Những yêu cầu nầy sau vụ Yên Bái là bước đầu ôn hòa nhất để làm căn bản tranh thủ độc lập dân tộc.(49)

Một điểm nữa cần ghi nhận là khi mới thành lập, tổ chức VNQDÐ còn nhiều sơ hở nên thất bại. Những bản án khắc nghiệt của thực dân Pháp và những sự hy sinh anh dũng của Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí đã tạo nên truyền thống anh dũng hy sinh tranh đấu vì dân vì nước của VNQDÐ, và là niềm tự hào của hằng hằng lớp lớp đảng viên QDÐ. Từ đó, QDÐ trở thành một sức mạnh chính trị đáng kể tiếp bước con đường tranh đấu cho lý tưởng tam dân chủ nghĩa (dân tộc, dân quyền và dân sinh), và đóng góp tích cực trong cuộc vận động vì độc lập tự do cho dân tộc.

Quan trọng hơn cả là tác động của vụ án Yên Bái trong dòng vận động của lịch sử tranh đấu cận đại Việt Nam. Vào đầu thế kỷ 20, phong trào vận động sôi nổi từ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cho đến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917. Sau đó, nghĩa là từ khi thế chiến thứ nhất chấm dứt năm 1918 ở Âu Châu, Pháp rảnh tay tại chính quốc và siết chặt sự cai trị ở các thuộc địa, các phong trào chống Pháp ở Việt Nam chìm xuống trở lại, chỉ có một biến cố quan trọng đáng kể ở ngoài nước là cuộc ném bom giết hụt viên toàn quyền Merlin của Phạm Hồng Thái tại Quảng Châu (Trung Hoa) năm 1924.

Chính trong không khí âm ỷ bình lặng đó, tiếng sấm động của cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ và vụ án Yên Bái khốc liệt đã làm sôi động hẳn lên trang sử tranh đấu quyết liệt của người Việt Nam, hâm nóng lại bầu nhiệt huyết của người Việt, nhất là giới thanh niên, gieo rắc mầm giống cách mạng trên toàn quốc, và làm bùng lên ngọn lửa yêu nước và đấu tranh khắp nơi.

Từ hào khí cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930, đảng Cộng Sản Ðông Dương mới vận động được dân chúng biểu tình tại Vinh, Bến Thủy (Nghệ An) ngày 1-5-1930 mà cộng sản thường gọi là biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh. Trong cuộc biểu tình nầy, số nạn nhân bị Pháp bắn chết là 6 người. Theo tài liệu của cộng sản, sau đó Pháp thả bom giết 217 nông dân tại Hưng Nguyên ngày 12-9-1930, và đàn áp sát hại 8 nông dân ở Tiền Hải (Thái Bình) ngày 14-10-1930.(50) Số thống kê trên đây trong sách Lịch sử Việt Nam tập 2 của nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội không viện dẫn chứng cớ rõ ràng. Tài liệu và sách giáo khoa chính thức của cộng sản Hà Nội cũng không nêu được con số đảng viên cộng sản bị hy sinh trong biến cố nầy, và có thể nói đảng Cộng Sản chỉ núp trong bóng tối, đẩy dân ra làm bia đỡ đạn, chứ đảng Cộng Sản hoàn toàn không thiệt hại gì, trong khi đó Quốc Dân Ðảng đã hy sinh thật lớn lao. Số thống kê về thiệt hại của Quốc Dân Ðảng rất cụ thể vì dựa trên biên bản các hội đồng đề hình Pháp, mà hồ sơ còn lưu trữ, chứ không phải tự viết lấy như đảng Cộng Sản đã làm.

Cũng chính do ảnh hưởng của VNQDÐ và sự hy sinh của những thanh niên anh hùng trong vụ án Yên Bái, phong trào thanh niên cứu tế nạn đói Ất Dậu (1945) dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim mới dễ dàng phát triển lớn mạnh.

Cao trào yêu nước bùng lên do cuộc khởi nghĩa Yên Bái là động lực thúc đẩy công cuộc giải phóng đất nước khỏi tay thực dân Pháp. Năm 1945, tình hình chính trị Việt Nam sau thế chiến thứ nhì (1939-1945) là cơ hội thuận lợi để giành lấy độc lập tự do, nhưng Hồ Chí Minh đã phục vụ cho quyền lợi của quốc tế cộng sản, đưa dân tộc vào quỹ đạo Liên Xô và cuộc tranh chấp cộng sản tư bản, dẫn đến 30 năm chiến tranh trên đất nước thân yêu với những hậu quả khốc hại kéo dài mãi cho đến ngày hôm nay.

Trần Gia Phụng

Tưởng Niệm lần thứ 85: Ngày Tang Yên Báy – Tinh Thần Yên Báy Bất Diệt!

$
0
0

Ngày 17 tháng 06 năm 1930 anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học, đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng và 12 đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Báy đền nợ nước trong đại cuộc đánh đuổi thực dân Pháp dành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho đồng bào. Đã 85 năm, hào khí và tinh thần thần yêu nước Yên Báy vẫn mãi mãi vang vọng trong lòng người dân Việt. Tại hải ngoại khắp nơi tổ chức tưởng niệm lần thứ 85 ngày Tang Yên Báy, trong nước các nhà văn, nhà báo, thanh niên và đông bào âm thầm tưởng nhớ  Tinh Thần Yên Báy Bất Diệt…

Xướng danh tưởng niệm 13 anh hùng dân tộc hy sinh 17-06-1930

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (4)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương IV: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG BỊ THỰC DÂN ĐÀN ÁP”

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG IV: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG BỊ THỰC DÂN ĐÀN ÁP

THIẾT LẬP HỘI ĐỒNG ĐỀ HÌNH 

 Thủ phạm ám sát Bazin không phải là Léon Sanh, tất là hành động của VNQDĐ, mà sở mật thám Bắc Việt đã mong manh biết từ hồi Nam Đồng Thư Xã được thành lập ít lâu, nhưng nếu đàn áp ngay thì thiếu bằng cớ, nên chúng chỉ cho theo dõi từng cá nhân. Đến ngày nay VNQDĐ đã có một lực lượng khá lớn lao, nên chúng không còn thể để lâu được nữa!

 Nguyên nhân bị tiết lộ, bởi một thanh niên trí thức là Nguyễn Quốc Túy, y khoác bộ áo cách mạng tham gia vào những vụ có tính cách ái quốc ái quần, để mưu đồ khoái lạc cá nhân. Sở Mật thám Bắc Việt thừa biết rõ là gã lợi dụng cách mạng để gây phá rối trị an; nên đề nghị với Thống Sứ Bắc Việt trục xuất y về nguyên quán ở Trung Việt vào hồi cuối năm 1927. Nhận được lệnh trục xuất, Nguyễn Quốc Túy đã đến năn nỉ với Rinert, Cẩm Mật thám:

 – Xin ông cho tôi ở lại Bắc Việt, tôi sẽ xin báo ông biết một tin quan trọng.

 Rinert cười khẫy, đáp lại bằng giọng mỉa mai:

 – Quan trọng à! Thôi về qua Vinh, anh sẽ khai với ông Chánh Mật thám ở đấy. Khi lính giải về tới Sở Mật thám Vinh (Nghệ An), Nguyễn Quốc Túy không ngần ngại khai tin quan trọng ấy với chánh mật thám tỉnh Nghệ An rằng:

 – … Hôm trước đây người bạn đồng học của tôi là Nguyễn Thái Học có đến rủ tôi vào hội kín, mà mục đích là dùng võ lực đánh đổ thực dân. Trong hội kín ấy có cả Nhượng Tống và Phạm Tuấn Tài. (1)

 Vào hồi 5 giờ sáng, ngày 17 thánh 2 năm 1929, tức ngày mồng 8 tháng giêng năm Kỷ Tỵ, Sở Mật thám Bắc Việt giăng lưới khám xét nhà và bắt một số Trung Ủy VNQDĐ trong số đó có Bùi Tiên Mai. Nhưng không bắt được hai yếu nhân của Đảng là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Nguyễn Thái Học khi ấy đương ở Khách Sạn Việt Nam, được đồng chí phi báo, ông liền thoát ra cửa sau khách sạn năm phút đồng hồ trước khi mật thám kéo đến bổ vây khám xét cơ quan ấy  (2).

Tên Toàn Quyền Đông Dương (1927) Pierre Pasquier

Sở mật thám đưa chúng tôi ra Biện Lý Cuộc. Nhưng thấy là việc quan trọng, Biện Lý Cuộc báo cáo lên Phủ Toàn Quyền. Toàn Quyền Pasquier ký nghị định thiết lập Hội Đồng Đề Hình (Commission Criminelle) để xét xử VNQDĐ. Thành Phần Hội Đồng Đề Hình (HĐĐH) gồm có: 

Chánh Hội Đồng: Brides, Thanh tra Hành chính, Chính trị Bắc Việt (3)

Ủy Viên   : Nicolas, Biện lý

Ủy Viên   : Delsalle, Đốc lý Hà Nội

Ủy Viên   : Guet, Đại úy

Thông ngôn    : Hoàng Hữu Phương

Lục Sự    : Arnoux Patrich

 Hội Đồng Đề Hình làm việc ngay trên tầng lầu ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội, nơi phòng giam cụ Phan Sào Nam hồi năm trước đây. Bắt tay vào việc, Brides ra lệnh cho các bị can hưởng chế độ chính trị phạm (régime politique). Số đảng viên VNQDĐ dần dần bị bắt giam lên tới con số 227 người (4), bởi Bùi Tiên Mai, một Trung Ủy đã tham dự Tổng Bộ đến hai kỳ, bị mật thám đem danh lợi cám dỗ, Tiên Mai đã cung khai hết công việc của Đảng và tố cáo hết tên tuổi những Ủy Viên Tổng Bộ. Ngoài Bùi Tiên Mai còn có năm, ba người bị mật thám tra tấn, khủng bố tinh thần, bị mắc mưu, tưởng chúng đã biết rõ tất cả, nên hỏi đâu nói đó. Riêng số Đảng Viên thuộc tỉnh Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, Hội Đồng Đề Hình đặc ủy cho Tuần Phủ tỉnh ấy là Vi Văn Định được cứu xét. Họ Vi dùng chó bẹc-dê Đức cùng số lính dõng người Thổ tra tấn một cách vô cùng khủng khiếp, nên số Đảng viên tỉnh Hưng Yên đã bị bắt nhiều nhất, còn các tỉnh khác, các Trung Ủy đã cố sức chịu đòn không chịu cung khai, Hội Đồng Đề Hình không tìm ra manh mối, nên giữ được an toàn.     

 MƯU PHÁ NGỤC THẤT HỎA LÒ 

 Thế là bọn thực dân Pháp đã bắt giữ hầu hết các yếu nhân, từ những sáng lập Đảng Viên đến những Ủy Viên trong Tổng Bộ cũ và mới. Chỉ duy còn hai nhà lãnh tụ tối cao của VNQDĐ là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. 

Với bằng đủ mọi cách mọi giá, chúng vẫn không sao bắt được, mặc dầu lại có tin Nguyễn Thái Học vẫn thường lui tới các vùng lân cận ngoại thành Hà Nội, để liên lạc và thông báo tin tức với các đồng chí của ông hiện đương bị giam giữ tại ngục thất Hỏa Lò.

 Do đó Arnoux, Tổng Giám Đốc Công An, một tên trùm mật thám già đời đất Bắc và nhất là Brides, Chủ Tịch Hội Đồng Đề Hình, một viên cai trị khét tiếng trong hàng “Tứ Hung”, đều như điên như dại, đứng ngồi không yên! Chúng vừa tỏ vẻ cáu kỉnh, vừa có ý lo lắng sợ hãi.

 Bỗng nhiên một hôm, vào cuối tháng 4 năm 1929, không biết từ đâu đưa lại? Y nhận được tin chắc chắn là Nguyễn Thái Học đương chuẩn bị một cuộc nổi dậy đánh phá ngục thất Hỏa Lò vào ngày kỷ niệm Jeanne d’Arc (Gian-Đa), 14 tháng 7 sắp tới, để giải cứu cho các đồng chí của Nguyễn Thái Học đương bị giam cầm trong ấy, giống như cuộc nổi dậy của dân chúng Ba Lê đánh chiếm ngục thất La Bastille hồi năm 1789.

 Tin này tuy trước có thực, và bản kế hoạch đầu tiên đã được thảo ra, nhưng sau vì nhiều lý do đặc biệt, nên lại quyết định bãi bỏ. Thế mà bọn phản động giờ đây mới đánh hơi thấy, lại mang đến tâu hót với Brides, làm cho y hoảng hốt và lo sợ, đến nỗi vừa sáng sớm tinh sương hôm sau, khi vừng đông còn chưa ló rạng, Brides đã đơn thương độc mã, lầm lì tiến bước vào khu sà-lim C (Cellules C) gồm 32 sà-lim, là khu biệt giam kiên cố và quan trọng nhất, và cũng âm u rùng rợn nhất tại ngục thất Hỏa Lò thời bấy giờ, đã được mệnh danh là “Le tombeau vivant” (Mồ chôn người sống). Nơi đây giam cầm hầu hết là nhân viên Tổng Bộ cũ và mới VNQDĐ.

 Tới hàng lang sà-lim C, Brides ra lệnh cho tên giám thị Pháp theo sau, lần lượt mở cửa từng sà-lim một, để y vào tận chỗ, nói với từng người chúng tôi một câu, nguyên văn: “Attention à vous tout! Et dites à HOC qu’il reste tranquille! S’il y a un moindre soulèvement à Hanoi, vous aurez tous la tête coupée!” (Các anh liệu hồn đấy! Và bảo với Học, nó phải yên đi! Nếu xảy ra một cuộc nổi dậy nhỏ nào ở Hà Nội, tất cả các anh sẽ bị rơi đầu ráo!)

 Câu nói của Brides vừa có ý như hăm dọa, vừa có ý như khuyên lơn vậy. Nói xong y lẳng lặng đi ra, không hỏi han thêm bớt nửa lời, và lần lượt ngót 30 người, với ai, y cũng chỉ nói một câu ấy mà thôi.

 Nguyên từ lâu, Brides đã cho rằng mặc dầu bị giam cầm nghiêm mật, nhưng một số anh em vẫn có liên lạc chặt chẽ với nhà lãnh tụ trẻ tuổi, và nhất là vẫn được tham khảo ý kiến đầy đủ về các vấn đề trọng đại của Đảng. Do đó, Brides thường nói với anh em chúng tôi rằng: “De la prison, le Tong bo dirige toujours le Parti” (Từ trong nhà giam, Tổng Bộ vẫn giữ quyền lãnh đạo Đảng).

 Dĩ nhiên cuộc nổi dậy nầy rồi sau không xảy ra, vì đã có lịnh bãi bỏ từ trước như trên đã nói, nhưng Brides thì có biết đâu, và y lại đinh ninh cho rằng, đây là kết quả của sự mặc nhiên thông cảm giữa chúng tôi với những lời du thuyết đầy khôn ngoan và khéo léo của y tại các sà-lim trước đây; rồi vô hình trung, từ đó chúng tôi cứ được quan trọng hóa tưởng tượng mãi lên. 

HỘI NGHỊ LẠC ĐẠO 

Cần phải có một số cán bộ đắc lực để bổ xung vào công tác cấp bách. Đầu tháng 4-1929, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu bí mật triệu tập Đại Biểu các tỉnh bộ toàn quốc tại Lạc Đạo, một làng gần ga Lạc Đạo thuộc tỉnh Bắc Ninh.

 Trong số cán bộ được bổ sung, có Sư Trạch, một đệ tử trong phái Thiếu Lâm, có phong độ giang hồ kiếm khách, xuất hiện giữa khi tòa nhà VNQDĐ đương bị cơn bão tố lung lay. Ngoài Sư Trạch còn có một số đảng viên được cất nhắc lên hàng cán bộ mới là Ký Con, Nguyễn Văn Chấn, Xuân Tùng, Vũ Văn Giản, Phạm Văn Tỉnh, Nguyễn Huy Thọ, v.v…

 Sau phần trên, Nguyễn Thái Học bước lên diễn đàn với một giọng nói cảm động:

 “Hiện tình Đảng chúng ta lúc này có một số chi bộ ở các tỉnh: Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, Tuyên Quang, và vài chi bộ nhà binh, số đồng chí bị bắt khá nhiều. Còn các tỉnh khác và đô thị, nhờ sự nhẫn nhục và gan dạ của các đồng chí ở trong ngục thất, nên số đồng chí của chúng ta ở ngoài còn rất đông, không những an toàn vô sự, mà lại còn phát triển thêm nhiều chi bộ. Các binh đoàn, các chi bộ nhà binh cũng mỗi ngày mỗi kết nạp thêm được nhiều đồng chí mới. Tình hình của Đảng thế là vững vàng, tinh thần gan dạ của các đồng chính thế là tỏ rõ…”

 Cuối cùng Hội Nghị quyết định xúc tiến ngay việc tuyên truyền kết nạp thêm đồng chí, và kiện toàn ngay lại những chi bộ mà số đảng viên bị bắt nhiều. Số đảng viên mới kết nạp, nay nhằm vào thành phần nông dân, thợ thuyền và sinh viên nhiều hơn.

 Vấn đề liên lạc cũng được đề ra, hội đồng quyết định lựa một số nữ Đảng viên lên thay thế số nam Đảng viên. Trong số liên lạc viên mới này có các cô: Đỗ Thị Tâm, cô Tình, cô Vân, cô Bắc, cô Chính và cô Giang.     

 VỤ ÁM SÁT TRỊNH THỊ NHU, TRỊNH THỊ UYỂN 

 Arnoux cũng như Brides, chúng đoán trước với nhau rằng, Nguyễn Thái Học còn ở ngoài vòng kềm tỏa ngày nào, thì một trận cuồng phong cách mạng, máu chảy thịt rơi, nhất định sẽ xảy ra bất cứ lúc nào! Bởi vậy công tác đứng trên hàng đầu của Brides lúc bấy giờ, là làm sao bắt giữ cho bằng được, hoặc thuyết phục cho được Nguyễn Thái Học chịu về đầu thú, thì tự nhiên an ninh trật tự toàn cõi Bắc Kỳ sẽ được bảo đảm như bàn thạch.

 Một buổi sáng, Sở Mật thám giải đến Hội Đồng Đề Hình một người tình nghi hoạt động cách mạng là Trịnh Đình Chiêm tức Cả Chiêm ở Phủ Lạng Thương. Cả Chiêm có hai cô em gái là Trịnh Thị Nhu và Trịnh Thị Uyển. Hai cô này là bạn gái chí thân với hai cô Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, mà theo báo cáo của sở mật thám, thì hai cô Bắc, Giang là Đảng viên VNQDĐ và đương hoạt động cách mạng tích cực bên cạnh Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu.

 Được biết rõ ràng như vậy, trước hết Brides cho gọi Trúc Khê, Ngô Văn Triệu, một đảng viên VNQDĐ hiện bị giam trong ngục thất Hỏa Lò lên văn phòng, đe dọa sau vuốt ve, rồi hứa: Nếu Trúc Khê bằng lòng viết một bức thư  cho Nguyễn Thái Học, khuyên ông ra đầu thú, thì lập tức họ Ngô được trả tự do. Ngô Văn Triệu trước còn từ chối, sau bằng lòng viết. Đại ý “khuyên Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu nên ra đầu thú, không những không bị tội, mà còn cứu vãn được 200 đồng chí hiện bị giam cầm; những thường đảng viên sẽ được tha hết, còn những Trung ủy sẽ làm án chiếu lệ mà thôi, Chính Phủ Bảo Hộ hứa chắc chắn như vậy…”

 Nắm được bức thư trong tay, Brides cho gọi Cả Chiêm, và cũng từ đe dọa sẽ mất đầu đến vỗ về an ủi: nếu Cả Chiêm khuyên được 2 cô em gái mang phong thư của Ngô Văn Triệu trao được đến tận tay cô Bắc hoặc cô Giang, thì không những được thả ngay về, mà khi thành công Chính Phủ Bảo Hộ lại còn ban thưởng cho là khác.

 Suy đi tính lại hồi lâu, Cả Chiêm nhận lời, tức thì hai cô Nhu, Uyển được sở mật thám bắt giải đến. Trước hết Brides cho phép anh em được chuyện trò, rồi áp dụng chiến thuật đe dọa vỗ về. Kết quả hai cô gái sông Thương bằng lòng nhận đem hai bức thư ấy. 

 Bước chân ra khỏi cổng Hỏa Lò, hai chị em bàn nhau phải tìm đến hỏi đồng chí Xứ ủy Mai Ngọc Thiệu tức Cả Sâm; vì Nhu, Uyển đều là đảng viên VNTNCMĐCH, đồng chí của Cả Sâm. 

 Ban chấp hành Kỳ Bộ VNTNCMĐCH tức thời được triệu tập một phiên nhóm bất thường vào buổi tối ngày 28.5.1929 tại đường Thể Dục (Wiélé), Hà Nội. Hội Nghị quyết định là giao hai nữ đồng chí Nhu, Uyển cho tỉnh Đảng bộ Hải Phòng lo liệu cho đáp tầu Canton sang Hồng Kông, công tác cho Tổng Bộ tại Quảng Châu, để tránh mọi sự có thể xảy đến nguy hiểm cho VNTNCMĐCH. Một  cán bộ đảng là Đặng Ngọc Long bí danh Minh được đặc phái đem mệnh lệnh xuống Tỉnh Đảng bộ Hải Phòng.

 Sáng ngày 31 tháng 5, Trịnh Thị Nhu, Trịnh Thị Uyển, đáp xe lửa xuống Hải Phòng. Hai cô được một đồng chí là Trần Tố Lang do Tỉnh Đảng bộ phái ra đón tiếp. Sau khi nhận được ám hiệu, Trần Tố Lang bảo hai nữ đồng chí hãy tìm một nơi để nghỉ ngơi, đợi đến đúng hồi 19 giờ rưỡi sẽ đến đầu Ngõ Nghè, trước trường trung học Trí Tri, gần đường Cát Cụt đợi, sẽ có người đến đón đưa lại cơ quan của Tỉnh Đảng bộ.

 Đợi đúng giờ hẹn, hai chị em lững thửng đến ngõ Trí Tri. Giữa một nơi vắng vẻ, bóng tối chập chờn, hai chị em còn đương ngơ ngác, chú ý xác định vị trí, thình lình một tiếng nổ phát ra, một viên đạn trúng ngực cô Uyển ngã ngục chết liền. Cô Nhu còn đương hoảng hốt, lại một tiếng nổ nữa tiếp theo, viên đạn trúng vào đùi cô Nhu ngã quỵ. Kẻ sát nhân trốn thoát.

 Vụ ám sát này nguyên do là Đỗ Ngọc Dzu nhận được mật lệnh Kỳ Bộ về việc lo liệu cho hai nữ đồng chí xuất dương. Dzu tìm đến Nguyễn Đức Cảnh, người phụ trách về tỉnh Đảng bộ. Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ gồm có ba người Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thị Vinh, Lê Văn Đống, ngoài ra còn có Quốc Anh, Kim Tôn và Sĩ  Quyết mới từ Hồng Kông về, Đỗ Ngọc Dzu, Trần Tố Lang và Hồ Ngọc Lân cũng được mời tham dự.

 Trước hội nghị, Nguyễn Đức Cảnh báo cáo về mệnh lệnh của Kỳ Bộ về lý do phải đưa hai nữ đồng chí xuất dương. Quốc Anh đứng phắt dậy nói:

 – “Bắc Việt Kỳ Bộ đã chủ trương một việc quá mơ hồ, không hiểu rõ tình hình đoàn thể một chút nào hết cả! Hiện nay Tổng Bộ còn đâu nữa! Mà bảo gửi hai chị ấy sang công tác! Tổng Bộ VNTNCMDCH hiện đã bị giải tán do quyết nghị của toàn thể Đại Biểu dự Đại Hội toàn quốc ở Hồng Kông đã biểu quyết để thay thế bằng ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG rồi! Vậy nay Kỳ Bộ, Tỉnh Bộ VNTNCMĐCH ở đây cũng đều bị giải tán để tổ chức lại thành ĐDCSĐ”.

 Quốc Anh nói dứt lời, Sĩ Quyết tiếp:

 – “Gửi sang Hồng Kông không được! Để ở đây trước sau gì hai chị ấy cũng sẽ bị bắt. Mà bị bắt trở lại thì rất nguy vì hai chị ấy giữ công tác liên lạc, biết hết các yếu nhân Kỳ Bộ, Tỉnh Bộ chúng ta.” 

 Đến lượt Đỗ Ngọc Dzu:

 – “Tình trạng đã xảy ra như thế này thì chỉ còn một cách là thủ tiêu luôn hai chị ấy đi cho rảnh nợ và yên chuyện, bận tâm làm gì! Băn khoăn vô ích! Để thì giờ mà lo tổ chức ĐDCSĐ chứ, sau này nước được độc lập, sẽ cho tên hai chị ấy vào biển phố là được rồi.”

 Bản quyết nghị thủ tiêu hai nữ đồng chí Trịnh Thị Nhu, Trịnh Thị Uyển được thông qua, công tác thủ tiêu được trao cho Hồ Ngọc Lân thi hành, bởi Lân là một tay thiện xạ. Nhưng oái oăm thay! Thị Nhu lại là vị hôn thê của Hồ Ngọc Lân, nhưng Lân không thể cưỡng lại mệnh lệnh mà Tỉnh Đảng bộ đã trao phó, Lân chỉ còn một cách là thi hành bản án một cách sai lệch, nghĩa là chỉ bắn vào một bên đùi Trịnh Thị Nhu. Hôm ấy là buổi tối ngày 31 tháng 5 năm 1929.

 Sau khi vụ án mạng này xảy ra, người bị bắt giam đầu tiên là Mai Ngọc Thiệu tức Cả Sâm và mấy đồng chí của ông ở trong Tỉnh Đảng bộ Hải Phòng.     

 HỘI ĐỒNG ĐỀ HÌNH XỬ PHIÊN CÔNG KHAI 

 Vụ án Bazin tuy phòng dự thẩm Tòa án Đại Hình có đòi Lê Thành Vị, Nguyễn Thái Thác, Hoàng Văn Đào và Nguyễn Hữu Đạt ra hỏi cung nhiều lần, nhưng không một ai chịu tiết lộ một điều nào; nên vẫn không tìm ra manh mối.

 Hội Đồng Đề Hình làm việc ròng rã suốt ngày đêm cho mãi đến cuối tháng 6, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu vẫn không sao bắt được, lại vấp phải vụ ám sát Trịnh Thị Nhu, Trịnh Thị Uyển khiến Chủ Tịch Hội Đồng Đề Hình hết sức bối rối, lại không muốn làm ra to chuyện e chính phủ Mẫu Quốc quở trách bọn cai trị Đông Dương. Nên Hội Đồng Đề Hình trả tự do cho 149 người, còn lại 78 người, quyết định đưa ra xử trước phiên tòa công khai vào hồi 8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 7 năm 1929.

 Trong bản cáo trạng có đoạn rằng: “… các giáo viên, công chức, các binh sĩ là những cây cột chống đỡ mái nhà Đông Dương. Việt Nam Quốc Dân Đảng đã làm lay chuyển ba cây cột ấy. Nguy hiểm hơn nữa! Là những kẻ được họ rủ rê (trừ Nguyễn Quốc Túy), vào thì vào, không vào cũng không một ai đi tố cáo với nhà đương cuộc. Sự im lặng đó khác nào đồng lõa!…”

 Sau khi nghe lời khai của các bị can và luật sư biện hộ, đến hồi 20 giờ tối hôm sau (mồng 3 tháng 7) Hội Đồng Đề Hình tuyên án. Thực là một vụ án không tiền khoáng hậu trong lịch sử, 78 bị can mà chỉ xét xử chớp nhoáng có 2 ngày.

 Nhưng suốt trong phiên xử án, Hội Đồng Đề Hình không hề nhắc nhở đến vụ án, Hội Đồng Đề Hình không hề nhắc nhở đến vụ ám sát tên trùm thực dân Bazin.

 2 người trắng án (5)

 3 người kết án khuyết tịch (6)

 26 người án tù treo từ 2 đến 5 năm (7)

 47 người án tù cấm cố từ 2 năm đến 15 năm (8)

 Ngoài án tù, mỗi người còn đèo thêm cái án 5 năm biệt xứ (interdiction de séjour).

 Đến ngày 24 tháng 8 năm 1929, chính quyền thực dân ra lệnh phát vãng 25 người án tù cấm cố từ 2 đến 5 năm đưa đi giam tại các ngục thất thuộc các tỉnh thượng du Bắc Việt; 23 người án cấm cố lưu đày từ 5 năm đến 15 năm đưa đi giam ngoài Côn Đảo.(9)

 DƯ LUẬN BÁO CHÍ THỜI ĐÓ 

 Là một Đảng cách mạng bí mật, làm sao mà dân chúng biết được! Cho mãi đến đầu năm 1929, đồng bào được tin chính quyền Pháp đang lùng bắt Đảng cách mạng chống Pháp là VNQDĐ.

 Kíp đến ngày mồng 2 tháng 7 năm 1929, các báo chí Hà Nội đều đăng tin Hội Đồng Đề Hình đã họp xử các can phạm VNQDĐ.

 Hầu hết dân chúng không hiểu Hội Đồng Đề Hình là gì? Và cũng không hiểu VNQDĐ là đoàn thể nào?

 Cuộc âm mưu chống Pháp được Hội Đồng Đề Hình (Le complot antifrancais devant la commission crimirelle), Chính quyền Pháp trong một thông cáo đăng trong báo “Avenir du Tonlkin” ngày 2 tháng 7 năm 1929 đã nói rõ thành phần và nhiệm vụ của Hội Đồng Đề Hình, ông Balnt nhắc lại như sau:

 “Hội Đồng Đề Hình được thiết lập là do sắc lệnh của Tổng Thống Pháp ký ngày 26 tháng 11 năm 1896, là một tòa án đặc biệt thiết lập thay thế cho tòa án thường để xử những dân bản xứ hay đồng hóa phạm những khinh hoặc trọng tội, liên quan tới sự an ninh của nền bảo hộ hoặc tới sự mở mang của nền thuộc địa Pháp”.

 Thành Phần Hội Đồng Đề Hình: Chủ Tịch Hội Đồng Đề Hình là một viên quan cai trị hạng nhất. Các hội viên gồm viên Công Sứ địa phương, nơi tội phạm đã xảy ra. Viên Biện Lý có thẩm quyền tại nơi này và một vị Đại Úy do Đại Tướng Tư Lệnh quân đội Đông Dương chỉ định.

 Tòa sẽ có một viên Lục Sự, lựa trong các Tham tá Lục Sự tòa Thượng Thẩm.

 Khi Hội Đồng Đề Hình họp tại một địa điểm ngoài khu vực thẩm quyền của các tòa Sơ Thẩm Hà Nội và Hải Phòng, viên Biện lý sẽ được thay thế bởi một vị Thẩm Phán khác do viên Chưởng Lý giám đốc Tư Pháp Đông Dương đề cử.

 Vị Chủ Tịch và hai đội viên Đại Úy và Thẩm Phán, viên Lục sự mỗi năm đều có nghị định chỉ định của viên Toàn Quyền Đông Dương.

 Qua các thành phần và sự điều hành trên, chúng ta thấy rằng:

 Hội Đồng Đề Hình chính là một tòa án để xử về các vụ chính trị, nhằm riêng các vụ chính trị chống Pháp.

 Các báo sau vụ án này có nhắc nhở tới nhiều, cả báo Pháp lẫn báo Việt. Các báo Pháp của thực dân Pháp cố tìm cách đánh lộn VNQDĐ với VNTNCMĐCH tức là biệt hình của đảng Cộng Sản sau này.

 Báo Franco Annamite viết:

 “Tôi xin hỏi còn có cách nào cho tôi khỏi nhầm lẫn hai đảng ấy được! Nếu không kể cách là phân biệt tên đảng nọ dài hơn tên đảng kia? Nói thực ra, tất cả những người trong hai đảng đều là bà con với nhau cả. Họ cùng theo mục đích là trục xuất người Pháp ra khỏi xứ Đông Dương. (RFA số 3 ngày 1 tháng 8 năm 1929, trang 25)”.

 Báo Avenir du Tonkin còn viết:

 “Bọn thượng lưu Annam đã nghiên cứu nền văn minh của ta, thì không khi nào lại bỏ ta, mà đi theo những kẻ chỉ có mục đích là phá hoại nền văn minh ấy. Họ còn nên hiệp tác với ta nữa, bởi vậy chúng ta có cái phận sự phải nên thân cận với bọn thượng lưu Annam, để cho họ tin cậy mình và hiểu rằng quyền lợi của chúng ta với của họ phải đi song song với nhau. Bên nào cũng đem chút thành tâm ra, thì việc đề huề liên lạc với nhau không khó gì…”

 Các báo Việt Nam phần nhiều khâm phục thái độ của những nhà cách mạng trẻ tuổi trong vụ này, nhưng không dám tỏ bày một cách rõ rệt trên mặt báo.

 Công cuộc chống Pháp này mặc dầu bị thất bại, nhưng đã có tiếng vang rất rộng lớn.

 Báo “Action Française” xuất bản tại Pháp trong ngày 2-6-1929 tức là trước ngày họp HĐĐH đã viết:

 “Que se pass-t’il en Indochine, et pourquoi nous dissimule-t’on si jalousement la verité? Un député colonial que nous ne nommerons pas aujourd’hui, a reçu d’une personnalité Française résidant en Indochine et plus particulièrement en Annam, une letter extrêmement pessimixte montrant le développement d’une campagne francophobe tenace, puissante, savamment dirigée et sur le point de porter ses fruits. Nous avons lu cette letter.

 C’est la politique de bon plaisir, d’arbitrai, d’illégalité faite là-bas par Varenne qui porter ses fruits avec L’autorissation des gouvernements successifs”.(10)

 Tại nước nhà hồi đó, có một số người chỉ sợ người Pháp bỏ về nước thì họ hết bấu víu. Tượng trưng cho số người đó, chúng ta phải kể đến Bác sĩ Lê Quang Trinh, hội viên Hội Đồng Chính Phủ đã viết trong báo “Le Progrès Annamite” ngày 20-7-1929 như sau: 

 “Supposons un instant que la France fatiguée des plaintes sempiternelles d’une certaine presse que se dit nationaliste, prenne parti de nous retirer sa protection. Qu’ arrivrait-il?

 1. Le Japon avec sa formidable flotte et son armée ne ferait qu’une bouchée de nous.

 2. La Chine grâce à sa population prolifique autant qu’industrieuse, nous submergerait, non sans nous avoir vaincus préalablement sur le terraint économique. Et nous connaissons par expérience, ce qu’il nous en coutait d’être dominés par les célestes. N’avons nous pas des millier d’années durant, pâli sous leur joug cruel? Faudrat-it recommencer?

 3. Le Siam, dont les visées ne sont pas moins manifestes, nous envahirait incontiment avec son armé de 600.000 hommes et avec sa flotte aérienne. Qu’aurions-nous à lui opposer? Etre dominés par les Siamois? N’y avons-nous jamais songé???

 4. Enfin les appétis déchainés des particuliers ne tarderaient pas, secondés par la troupe des mécontants et des aventuriers, à occasionner dans notre pays même des dissentions intestines qui, débridées dégénéraient en guerre civiles, catastrophe ent plus redoubtable que toutes les invasions du monde!!!” (11)

 Kết luận đấy là ý kiến của một số người trí thức Việt Nam cách đây đã quá 30 năm, chỉ sợ người Pháp rút lui khỏi Việt Nam! Nhưng may cho những phần tử trí thức ấy, người Pháp đã ở lại cho đến khi thật sự bị người Việt Nam cùng đứng dậy tống khứ (1954).

 Còn có một vài tờ báo bằng chữ Pháp do người Việt chủ trương như tờ “La Tribune Indochinoise” của ông Bùi Quang Chiêu… Những tờ báo này luôn luôn nhắc người Pháp nên thay đổi chính sách và mở mang thật sự cho Đông Dương. 

=====================

Chú Thích:

(1) Tài liệu này tìm thấy trong tập hồ sơ của các đảng viên quan trọng của VNQDĐ bị bắt giam hồi tháng 2 năm 1929 được Hội Đồng Đề Hình cho xem trước ngày đưa ra tòa xét xử phiên công khai.

(2) Nhượng Tống đã viết trong tập Nguyễn Thái Học do Tân Việt xuất bản, nơi trang 60 rằng: “Chúng cho người canh cả đêm, dò từng bước, nhưng thực thì có thể nói rằng chúng chả biết gì cả! Có giở đến hồ sơ mình mà coi, mới biết những tờ trình của tụi thám tử tâng công phần nhiều là bịa đặt suốt từ đầu đến cuối. Không có các tay nội công thì không bao giờ phá nổi một đảng cách mạng, mà Đảng chúng tôi cho mãi tới năm 1929, quả tình không có một tay nội công nào! Bảo các đảng viên của chúng tôi hồi ấy lẫn nhiều mật thám, hoàn toàn là một chuyện của những kẻ xấu bụng đặt điều nói lên.”

(3) Brides được người dân Bắc Việt liệt vào hạng “Tứ Hung”: nhất Đác (Darles), nhì Ke (Eckert), tam Ma (Delamare), tứ Bích (Brides).

(4) 227 người được phân loại như sau:

 – Thư ký của chính phủ   36 người

 – Nhân viên chính quyền Pháp  13

 – Giáo Viên nha học chính  36

 – Giáo viên tư  4

 – Giáo sư Hán văn  2

 – Sinh viên   6

 – Quảng cáo viên  4

 – Thương mãi và kỹ nghệ  10

 – Buôn bán và tiểu công nghệ  39

 – Điền chủ, nông dân và y sĩ  37

 – Quân nhân  40

 Bảng tóm lược này chứng tỏ cho thấy thành phần trí thức và bán trí thức cao đến đâu! Và phong trào có thể trở nên nguy hiểm cho nền an ninh của Pháp, bởi vì hơn 50 phần trăm kẻ âm mưu làm nghề phục vụ cho chính quyền Pháp. Trích theo tài liệu của Louis Marty, giám đốc mật thám Đông Dương viết trong cuốn “Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’Indochine Francaise”.

(5) Đinh Huân Trung, Trần Văn Sinh

(6) Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Văn Viễn.

(7) Chu Dưỡng Bình, Phạm Hữu Chính, Đặng Đình Điển, Nguyễn Văn Bách, Nguyễn Hữu Đạt, Hà Đức Vượng, Nguyễn Văn Loan, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Kim Ngữ, Vũ Đức Hiền, Trần Xuân Ngưỡng, Trần Văn Chính, Ngô Thúc Địch, Lê Văn Quyền, Đặng Minh Phụng, Lê Đức Phong, Liễu Bá Dung, Phạm Hữu Nữu, Nguyễn Văn Triệu, Trịnh Thế Hưng, Lê Văn Thọ, Nguyễn Thư Hoàng, Nguyễn Văn Tâm, Phó Đức Chính, Nguyễn Đức Phương, Nguyễn Huy Viên.

(8) Phạm Tuấn Tài, Hoàng Thúc Dzị, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc, Trương Dân Bảo, Nguyễn Thế Nghiệp, Hoàng Trác, Nguyễn Thái Trác, Hồ Văn Mịch, Hoàng Phạm Trân, Lê Xuân Huy, Trần Văn Môn, Đặng Xuân Tiếp, Phạm Hữu Phủng, Hoàng Hồ, Lê Văn Thu, Trần Bích, Phạm Huy Kiều, Đoàn Mạnh Chế, Đoàn Bá Xích, Đào Danh Hội, Đào Viết Chuyên, Đoàn Mạnh Tiếp, Trần Hưng Long, Đặng Ngọc Nhữ, Nguyễn Văn Đàm, Nguyễn Văn Kệch, Nguyễn Văn Khắc, Nguyễn Cảnh Hoàn, Nguyễn Trung Phú, Trịnh Đình Kim, Nguyễn Đăng Hóa, Phùng Văn Đệ, Lê Thành Vị, Hoàng Văn Đào, Chu Văn Phác, Vũ Tá Chữ, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Duy Cương, Phạm Liên Hoa, Lê Trung Đăng, Nguyễn Văn Tốn, Đào Khắc Hưng, Phạm Minh Đức, Phạm Văn Trứ, Đội Bật…

(9) Cùng trong phiên xử của HĐĐH này, còn xử mấy đảng viên VNTNCMĐCH là Dương Hạc Đình (khuyết tịch 20 năm cấm cố), Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Danh Đới, Đặng Đình Hướng và Mai Ngọc Thiệu từ 2 đến 5 năm cấm cố. 

Và còn một người nữa không tham gia vào một đảng phái nào, nhưng rất hào hiệp, nhiệt tâm và rất triệt để ủng hộ cách mạng, bị HĐĐH kết án 5 năm cấm cố lưu đày, là cụ Nguyễn Công Riệu tức Ba Liệu.

(10) Bên Đông Dương có gì, và tại sao người ta lại dấu diếm chúng ta sự thực một cách ngoan cố? Một nghị viên thuộc địa mà ở đây chúng tôi không nói tên bữa nay, đã nhận được của một Pháp kiều ở Đông Dương, đúng hơn là ở Trung Việt, một lá thư đầy yếm thế, nói rõ một phong trào bài Pháp bền vững, mạnh mẽ và được điều khiển một cách khéo léo và ở trên đường kết quả, chúng tôi đã đọc lá thơ đó. Báo đó lại viết tiếp:

 Đây là một chính sách theo sở thích, áp bức bất công áp dụng tại đó bởi Varenne, chính sách này đã có kết quả của nó, với sự chuẩn y của Chính Phủ liên tiếp.

(11) Thí dụ có một ngày nước Pháp lấy làm chân những sự oán vọng luôn luôn của mấy tờ báo tự nhận là theo chủ nghĩa quốc gia, mà bỏ chúng ta không bảo hộ cho nữa thì trở ra làm sao?

 a. Nước Nhật có Thủy quân và Lục quân rất mạnh có thể thắng ta như trở bàn tay.

 b. Nước Tầu nhờ có dân đông đúc và giỏi về đường kỹ nghệ, có thể làm cho ta phải chìm đắm sau khi đã thắng ta trên đường kinh tế. Nhờ có sự kinh nghiệm khi xưa, nên chúng ta đã biết rằng nếu để các ông Tầu cai trị, thì thiệt thòi đủ đường. Trong mấy ngàn năm nay chúng ta chẳng sợ hãi mất mặt dưới quyền áp chế của họ là gì? Như vậy mà còn muốn bắt đầu lại như cũ hay sao?

 c. Nước Xiêm định ý không kém rõ ràng, cũng có thể đem ngay 600.000 quân và một đội phi cơ để tàn phá nước ta. Chúng ta nghĩ tới việc đó không?

 d. Sau hết có những kẻ bất bình và những kẻ bằng lòng giúp các sự ham muốn sôi nổi của những kẻ ăn không ngồi rồi, sẽ gây nên ở trong nước những việc xâu xé lẫn nhau, không ai ngăn cấm được, rồi hóa ra nổi loạn. Thật hại thêm! Một sự tai hại, một trăm lần ghê sợ hơn những sự tàn phá trong thế giới

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm Vào Đọc Tiếp Chương Kế]

 

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (5)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương V: “THI HÀNH KỶ LUẬT ĐẢNG

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG V: THI HÀNH KỶ LUẬT ĐẢNG 

THI HÀNH BẢN ÁN BÙI TIÊN MAI 

 Tổng Bộ kỳ thứ nhứt mãn nhiệm kỳ, Bùi Tiên Mai (1) được Tỉnh Đảng bộ Tỉnh Thái Bình cử lên thay thế cụ Đặng Đình Điển, vì tuổi già sức yếu.

 Ngày 17 tháng 2 năm 1929, Bùi Tiên Mai bị sở mật thám bắt từ tỉnh Thái Bình giải lên Hà Nội, bị mật thám lung lạc, Bùi Tiên Mai đã quên lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc, trước mặt các đồng chí, đã cung cấp đầy đủ những tài liệu quan trọng cùng những danh tánh các Trung Ủy tham dự Tổng Bộ suốt mấy kỳ liền. Hơn nữa, Bùi Tiên Mai đã dám công khai ra nhận diện và đối chứng với những đồng chí, mà Bùi Tiên Mai đã khai ra trước Hội Đồng Đề Hình.

 Trong khi tất cả các đồng chí bị nhốt trong sà-lim, hoặc trại giam thì Bùi Tiên Mai được ưu đãi nằm một phòng riêng trên lầu, nằm giường lò-xo có đệm êm ấm và màn tuyn, ăn cơm Pháp.

 Để đền đáp công lao một kẻ phản Đảng, sẵn sàng làm tôi tớ cho thực, phong. Sau ngày Hội Đồng Đề Hình xử xong vụ án VNQDĐ, Bùi Tiên Mai được chính quyền thực dân cho phục chức thừa phái phục vụ tại văn phòng Tổng Đốc Vi Văn Định tỉnh Thái Bình với một số tiền thưởng.

 Sau khi điều tra, thu thập đầy đủ bằng chứng. Tòa án cách mạng tối cao VNQDĐ họp phiên đặc biệt do Nguyễn Khắc Nhu chủ tọa, kết án tử hình tên phản đảng Bùi Tiên Mai. Bản án được giao cho Ban ám sát thi hành.

 Đoàn viên trong ban ám sát là Trịnh Tam Tỉnh, một học sinh 21 tuổi, nhà ở gần ga Cống Vọng ngoại thành Hà Nội, được trao phó công tác đi giết Bùi Tiến Mai. Sau khi trao bản án cùng bức địa đồ có đánh dấu nơi nhà của Mai và khẩu súng lục với 12 viên đạn cho Trịnh Tam Tỉnh, Lương Ngọc Tốn (trưởng ban ám sát) còn ân cần dặn dò thêm:

 – “Nên thi hành vào khoảng 17 hoặc 18 giờ, nghĩa là sau khi nó làm việc ở dinh Tổng Đốc về nhà, thì giờ ấy ít người qua lại”.

 Nhận được mệnh lệnh, Tỉnh liền thu xếp việc nhà để kịp sớm ngày hôm sau đáp tầu thủy đi Nam Định, ghé bến Tân Đệ đi Thái Bình để thi hành nhiệm vụ.

 Bước chân xuống tầu thủy cặp bến Hà Nội, tình cờ Tỉnh gặp Phạm Huấn, một bạn đồng học và cũng là một đoàn viên trong Đảng cùng xuôi chuyến tầu thủy ấy. Đôi bạn trẻ tay bắt mặt mừng. Sau một hồi tâm sự, Huấn tỏ ý muốn xin cùng được đi theo để phụ lực, được Tỉnh đồng ý.

Xế chiều ngày 15 tháng 3 năm 1929, tầu thủy cặp bến Tân Đệ, mà đường đến tỉnh lỵ Thái Bình còn cách xa, ngủ đêm trong thành phố e xảy ra nhiều điều bất lợi, Tỉnh rủ Huấn vào chơi nhà một đồng chí ở làng Bùng gần bến đò Tân Đệ để qua một đêm. Hôm ấy là ngày 3-8-1929.

 Đến nhà đồng chí trời còn hơi sớm, trong giờ phút đợi bạn sửa soạn bữa cơm, Tỉnh và Huấn sánh vai đi dạo chơi trên con đê Bùng. Khi đi đến lối rẽ gần làng Thanh Ban, Tỉnh mót đi đại tiện, bèn rút khẩu súng lục giấu kín trong người đưa Huấn giữ hộ, rồi xuống chân đê làm việc cần. Vừa bước chân xuống khỏi mặt đê, nghe thấy tiếng súng nổ, Tỉnh hốt hoảng chạy lên, đã thấy Huấn ngã gục, hai tay ôm bụng, máu chảy đầm đìa. Tỉnh ôm lấy bạn và nói:

 – “Thôi tôi đã giết chết anh rồi! Mà đại sự cũng hỏng nốt! Trường hợp này thế tất người ta sẽ cho tôi là kẻ sát nhân.”

 Huấn hai tay đỡ ngực bảo Tỉnh:

 – “Thôi, đại sự đã lỡ! Chúng ta đều là kẻ có tội với Đảng, dầu có hối cũng không kịp nữa! Nhưng anh hãy bình tĩnh, đi gọi ngay xe kéo tới đây, kíp đưa tôi đến huyện lỵ sở tại này, để tôi kịp cung khai gỡ tội cho anh, đừng lo sợ vô ích.”

 Trời mỗi phút một tối dần, kiếm đâu ra được xe kéo ở quãng đường hẻo lánh ấy? Chỉ gặp có một bác nông phu vác cuốc đi qua, Tỉnh móc túi lấy ra hai hào (2 cắc) nhờ bác nông phu đi kêu xe giùm. Trời đổ tối sẫm, xe chẳng thấy, chỉ thấy chức dịch cùng tuần tráng từ trong làng xóm đốt đuốc vác gậy, thổi tù và inh ỏi kéo tới. Thấy quần áo Tỉnh dính đầy máu, cho ngay là kẻ sát nhân không cần hỏi han gì, hô to trói Tỉnh lại, đánh đập một hồi, rồi lập biên bản, Phạm Huấn khai:

 – “Tôi vì buồn phiền về hoàn cảnh gia đình, nên quyết chí quyên sinh. Anh này (trỏ Tỉnh) đối với tôi chỉ là người khách qua đường, không liên hệ gì đến tôi cả! Khi đi qua quãng đường này, thấy tôi tự tử, vội chạy lại dằng súng để ngăn tôi, vì vậy nên quần áo anh ta vấy máu. Sự thực là tôi tự bắn tôi, vậy yêu cầu các ông thả ngay anh ta ra.”

 Biên bản lập xong, chức dịch sai tuần tráng cáng Huấn và áp giải Tỉnh lên Huyện nha Thư Trì. Bởi vết thương quá nặng đi được một quãng đường thì Phạm Huấn tắt thở, yên giấc ngủ ngàn năm.

 Từ huyện nha Thư Trì, Tỉnh cùng thi hài Phạm Huấn được chuyển đến Tỉnh đường tỉnh Thái Bình. Theo sự khám xét của nhà hữu trách, giữa Huấn với Tỉnh tất có sự liên quan, vì tự tử mà bắn súng vào cạnh sườn, là cả một chuyện tối ư vô lý. Tình nghi là một vụ án chính trị quan trọng. Từ Thái Bình, Trịnh Tam Tỉnh bị giải về mật thám Hà Nội. Bị tra tấn một cách vô cùng tàn nhẫn dã man, Tĩnh vẫn giữ lời khai quanh co như ở Thái Bình, nhất định không chịu cung khai sự thực. Bỗng một bức thư nặc danh gửi đến sở mật thám, tố cáo Trịnh Tam Tịnh là đoàn viên trong Ban ám sát của VNQDĐ thừa lệnh đảng này đến Tân Đệ để mưu sát Toàn quyền Pasquier, thời gian ấy quả thực Pasquier có đi kinh lý Nam Định, Thái Bình. Vì vậy Trịnh Tam Tịnh lại càng bị tra tấn dã man thêm.

 Đồng chí của Trịnh Tam Tịnh ở làng Bùng cũng bị bắt giam ở sở mật thám Hà Nội, cũng bị tra tấn đến cực hình nên phải cung khai hết tất cả sự thực. Xét thấy đủ tang chứng, Tỉnh đành phải thú nhận:

 – “Thừa mệnh lệnh của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và trưởng ban ám sát là Nguyễn Văn Xuyến phái Tỉnh đi Thái Bình để hạ sát tên phản đảng là Bùi Tiên Mai…”

 Nhưng sự thật, Nguyễn Văn Xuyến chỉ là cái tên tưởng tượng mà Trịnh Tam Tỉnh bịa ra mà thôi.

 Hồ sơ lập xong, Trịnh Tam Tỉnh bị giải về tỉnh Thái Bình để thuộc quyền Tòa Án Đệ Nhị cấp tỉnh ấy xét xử.

 Ngày 22 tháng 10 năm 1929, Tòa Án Đệ Nhị cấp tỉnh Thái Bình đã kết án: 

 Trịnh Tam Tỉnh 10 năm cấm cố. 

 Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Xuyến (khuyết tịch) khổ sai chung thân. 

 CƠ QUAN THANH GIÁM BỊ KHÁM PHÁ 

 Nguyên từ hồi tháng 6 năm 1929, sở mật thám bắt được một thanh niên đảng viên VNQDĐ là Nguyễn Văn Kinh. Sau khi tra tấn, Brides được biết rõ Nguyễn Văn Kinh là liên lạc viên của Nguyễn Thái Học. Tương kế tựu kế, Brides lợi dụng ngay Kinh. Từ đe dọa đến dỗ dành, đem danh lợi ra hứa hẹn, khiến cho Nguyễn Văn Kinh, một thanh niên mới 20 tuổi đầu, việc đời chưa từng trải, bị Brides, một cáo già lão luyện mua chuộc, Nguyễn Văn Kinh đã tố cáo những nơi mà Nguyễn Thái Học hay lui tới. Bởi vậy ngày 13 tháng 7, sở mật thám phái thám tử đến khám xét nhà Phó lý Dương Quang ở Bắc Ninh, ngày 18, nhà Quản Khê cũng ở Bắc Ninh, trên đường trở về Hà Nội, mật thám xét nhà chị Lê Thị Thăng (vợ đồng chí Nguyễn Ngọc Sơn) ở Gia Lâm, nhưng cũng đều không tìm thấy tung tích của Nguyễn Thái Học!

 Mặc dầu chưa bắt được Nguyễn Thái Học, Brides thấy Nguyễn Văn Kinh là người vẫn có thể dùng được, nên ra lệnh thả Kinh ra, để làm tròn sứ mạng phản đảng.

 Được thả ra, Kinh trở về nhà ở Phủ Lạng Thương nằm nghỉ ít ngày. Thấy không hoạt động gì, Brides ra lệnh bắt Nguyễn Văn Kinh để khủng bố tinh thần, rồi huấn luyện thêm cho Kinh nghề làm gián điệp thực thụ, sau ít ngày tạm gọi lành nghề lại thả ra.

 Hồi ấy sự bắt bớ vào tù ra khám là một chuyện rất thường, đôi khi còn được ca tụng là đồng chí ấy đã khôn ngoan trong việc cung khai, ngay như Phó Đức Chính, Phan Xuân Đài… bị Hội Đồng Đề Hình bắt vào rồi lại thả ra đến mấy lần!

 Nguyễn Thái Học khi ấy mới từ làng Võng La trở về nhà một lão đồng chí là Nguyễn Tiến Nguyên ở làng Liễu Ngạn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Văn Kinh hỏi thăm các đồng chí được biết Nguyễn Thái Học hiện có mặt tại Liễu Ngạn, liền tìm đến thuật lại, chuyện mình bị bắt giam đến hai lần. Nguyễn Thái Học chẳng những không nghi ngờ, lại còn khen là một đồng chí gan dạ và từ đấy Nguyễn Văn Kinh lại được theo bên cạnh Nguyễn Thái Học.

 Ngày 27 tháng 8, mật thám đến vây khám xét nhà cụ Nguyễn Tiến Nguyên, nhưng Nguyễn Thái Học vừa đi ra khỏi, Nguyễn Tiến Nguyên bị mật thám bắt giam (2). Kế đến cơ quan trọng yếu của Đảng ở số 9 phố Thanh Giám, Hà Nội, cũng bị sở mật thám Bắc Việt huy động một số đông đảo thám tử đến bổ vây khám xét. Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thị Giang và mấy cán bộ vì công tác khẩn cấp đã đi Na Sầm từ buổi chiều hôm trước. Nhưng mật thám đã bắt được mấy cán bộ quan trọng: Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Viễn, Phó Đức Chính và Giáo Lai, cùng một số tài liệu quan trọng với số bạc là 650 đồng. Chị Nguyễn Thị Thuyết (3) một nữ cán bộ không rõ cơ quan Đảng bị lộ, nên ngay buổi chiều hôm ấy chị Thuyết còn tìm đến, bị mật thám còn đứng rình ở phía ngoài bắt được, khám thấy trong chiếc cặp da của chị, có ba khẩu súng lục, một số đạn và số tiền hơn 100 đồng.

NGUYỄN VĂN VIÊN HY SINH 

 Theo báo cáo của NguyễnVăn Kinh thì thủ phạm ám sát Bazin chính là Nguyễn Văn Viên. Nên khi bắt được anh Nguyễn Văn Viên, tin tức được thực dân loan ra, giới thực dân Pháp hết sức hoan hỉ. Trước phòng Dự thẩm, Nguyễn Văn Viên nhìn nhận rằng: “Chính anh là Đảng viên VNQDĐ và chính anh đã cầm súng bắn chết Bazin”. Nhưng còn tòng phạm là ai? Anh nhất định không chịu cung khai.

 Để tránh sự liên lạc thông tin giữa sà-lim này với sà-lim khác và được chắc chắn hơn, viên Dự Thẩm Tòa Án ra lệnh giam Nguyễn Văn Viên vào khu sà-lim dành cho phạm nhân Pháp. Tương đối khu sà-lim này không có lính gác đi rỏn (ronde) lại không có cùm, nên Nguyễn Văn Viên thừa cơ hội xé chiếc áo sơ mi xoắn lại thành dây thắt cổ tự tử ngay đêm hôm ấy, đễ giữ hoàn toàn bí mật cho Đảng.

 Sáng hôm sau, viên Dự Thẩm cho đưa Léon Sanh đến trước một tử thi treo lủng lẳng nơi cửa sổ ở sà-lim giam riêng phạm nhân Pháp, chỉ tay vào cái xác cởi trần, ốm nhom và khắp mình mẩy tím bầm vì máu bị ứ đọng, hỏi Léon Sanh:

 – Anh có nhận ra người này là ai không?

 – Tôi không hề biết người này, Léon Sanh đáp.

 – Anh có quen ai là Nguyễn Văn Viên không?

 – Tôi không quen ai có cái tên ấy.

 Cuối tháng 8 năm 1930, Léon Sanh được đưa ra xét xử trước phiên Tòa Án Đại Hình, Trạng sư Bordaz bênh vực cho bị can đã cãi rằng: Léon Sanh là một thanh niên cuồng vọng đã đọc nhiều sách của Niètzche, nên trong lúc bồng bột đã nhận bừa toan gỡ tội cho hai người khác mà bị can có lẽ mến phục cử chỉ… Léon Sanh được Tòa tha bổng. Kết thúc vụ án ám sát Bazin.

 Cái chết của tráng sĩ Nguyễn Văn Viên đã cứu chết hai đồng chí Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Đức Lung tức Ký Ca. Nhưng kết cục Lân và Lung bị Pháp bắt đày ra Côn đảo, bị cáo là đảng viên VNQDĐ. 

 Đến chiều ngày 16 tháng 9, sở mật thám lại phái thám tử đến vây khám nhà Nguyễn Tấn Lộc ở làng Cổ Pháp, nhưng Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Tấn Lộc đã vì công tác khẩn cấp phải ra đi từ chiều bữa trước rồi!     

 XỬ TỬ NGUYỄN VĂN KINH 

Sau những vụ khám xét và bắt bớ trên đây, ban mật vụ của Đảng tức thời mở cuộc điều tra, được biết chắc chắn không phải kẻ nào xa lạ mà chính là Nguyễn Văn Kinh. Tòa án cách mạng tối cao của Đảng được thành lập ngay, tuyên án xử tử Nguyễn Văn Kinh, bản án giao cho Ký Con chịu trách nhiệm thi hành.

Để rèn luyện cho một đồng chí mới, có tinh thần mạo hiểm và hy sinh, Ký Con bảo ngay Nguyễn Văn Kinh về phủ Lạng Thương tìm Trần Đức Trinh tức Trinh Con, một học sinh mới 18 tuổi.

Được Ký Con gọi, Trinh tức tốc theo Kinh về Hà Nội, để Kinh đi khỏi, Ký Con vỗ vai Trinh bảo:

 – Thằng Kinh nó phản Đảng rồi! Anh cầm con dao này đợi đến chiều tối, anh hãy đến nơi nó ở và bảo nó rằng: “Tôi mời nó đi xem hát tối nay.” Rồi anh cùng nó lên vườn Bách Thảo, tìm tới ghế đá trước “chuồng voi” đợi tôi. Anh nhớ là khi thấy tôi bắn nó ngã gục xuống rồi, thì anh cầm con dao này đâm thật mạnh vào cổ nó, nhưng phải nhớ lấy giấy mà lót vào chuôi dao.

Đợi đúng giờ, Trịnh đến tìm Kinh, nghe thấy Ký Con mời đi xem hát, Kinh mừng quýnh, vội thay quần áo rồi cùng Trịnh phóng xe đạp sánh vai nhau tiến lên vườn Bách Thảo tìm đúng chỗ Ký Con dặn ngồi chờ.

Thình lình từ phía Digue Parreau, sau phía “chuồng voi”, Ký Con tiến đến, rút súng lục chĩa bắn vào đầu Nguyễn Văn Kinh, Kinh ngã gục chết liền. Trịnh hoảng hốt cầm con dao đâm, nhưng không đâm vào cổ mà lại đâm vào cạnh sườn Kinh, rồi vội bỏ chạy, không kịp nhặt mảnh giấy lót chuôi dao. Trái lại, Ký Con lạnh lùng thản nhiên rút cái ví ở túi áo trong của Kinh ra, đặt vào đấy một mảnh giấy, một bản án vỏn vẹn có bốn chữ: “KHÔNG GIỮ LỜI THỀ”, rồi lại bỏ chiếc ví vào túi áo trong của Kinh, rồi ung dung nhảy lên con ngựa sắt đi thẳng. Hôm ấy là ngày mồng 6 tháng 10 năm 1929.

 Sở mật thám hay tin, Arnoux ra lệnh bắt Nguyễn Đức Lung tức Ký Cao. Cho mãi đến khi bắt được Ký Con, Nguyễn Đức Lung mới giải được hàm oan. 

 THI HÀNH BẢN ÁN NGUYỄN VĂN NGỌC 

Thi hành kỷ luật Đảng, vụ thứ ba Nguyễn Văn Ngọc. Ngọc nguyên là nhân viên trong Ủy ban quân sự thành Đảng bộ VNQDĐ Hải Phòng, đã mật báo cho sở mật thám Pháp biết được cuộc hội nghị quân chính của Đảng họp vào ngày 7-9-1929 tại căn nhà gác số 96 phố Cầu Đất thành phố Hải Phòng, khiến đa số Ủy viên bị bắt, trong số có Nguyễn Chí Chữ (4), Nguyễn Xuân Tùng,… chỉ có mấy đồng chí chạy thoát là Phạm Văn Tình (5), Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Huy Thọ.

Nguyễn Văn Ngọc cũng bị bắt, nhưng được thả liền sau đó, khiến cho các đồng chí nghi ngờ! Thành Đảng bộ Hải Phòng ra lệnh theo dõi điều tra hành vi của Ngọc trước và sau vụ ấy. Thu thập đầy đủ tài liệu, được biết đích xác là Nguyễn Văn Ngọc phản đảng, Tòa án cách mạng tối cao được triệu tập do Phạm Văn Tình chủ tọa, tuyên bố tử hình Nguyễn Văn Ngọc, kẻ đã quên lời thề, bán đồng chí và làm chậm trễ công cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA của Đảng tại khu này… Bản án trao cho Trần Chí Hải là trưởng ban Đặc vụ thi hành. Hải trao trách nhiệm cho một đồng chí kết thân với Ngọc, dụ Ngọc đến nhà một đồng chí ở An Dương (khu ngoại ô Hải Phòng) để hạ sát.

Trong khi dụ dỗ đó, cơ quan chế bom của Đảng tại Lạc Viên bị vỡ, Phạm Văn Tình, Nguyễn Huy Thọ bị bắt và một số yếu nhân khác cũng bị truy nã gắt gao, xét ra đều do tên Ngọc tố giác, rồi y trốn vào ở luôn trong nhà tên mật thám Pháp là Bréard.

Cách ít ngày sau, Bréard vờ bắt Nguyễn Văn Ngọc đưa vào giam chung với các đồng chí trong ngục thất Hải Phòng, với mục đích để dò xét sự liên lạc giữa anh em cách mạng ở ngoài và trong tù, vì họ vẫn thường thông tin tức cho nhau qua một viên giám thị là Nguyễn Đình Ái. 

 Xét thấy cơ hội tốt để hạ Ngọc, anh em mật tin cho nhau phải thi hành bản án gấp. Hôm ấy là ngày 12 tháng 5 năm 1930, vào hồi 3 giờ đêm, Nguyễn Chí Chữ, Phạm Văn Tình, Nguyễn Huy Thọ và Phạm Văn Mễ chờ cho Nguyễn Văn Ngọc ngủ say, liền lấy giây rút quần thòng qua cổ Ngọc còn Chữ và Tình đè lên người Ngọc, đấm vào đầu Ngọc, còn Thọ và Mễ mỗi người một đầu dây kéo siết thật chặt. Nguyễn Văn Ngọc chết mà trong trại giam không một người nào hay! Vì mọi người ai nấy cũng đều ngủ say cả.

 Ra trước Tòa Án Đại Hình, Phạm Văn Tình và Nguyễn Chí Chữ đã ung dung nhận chính hai anh đã giết tên “PHẢN ĐẢNG NGUYỄN VĂN NGỌC!” Tòa án đại hình đã kết án tử hình hai anh Phạm Văn Tình, Nguyễn Chí Chữ và đã lên máy chém thực dân tại trước cổng ngục thất Hải Phòng vào đầu mùa xuân năm 1931. 

===========================

Chú Thích:

(1) Bùi Tiên Mai nguyên quán tại làng Đức Hiệp, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình. Thông Hán văn, được bổ chức thừa phái hạng 5 huyện Thanh Thủy thuộc Tỉnh Phú Thọ.

Vì tính ham mê cờ bạc, nên thường khiếm khuyết công vụ, bị bãi chức. Trở về nguyên quán, tuy nhà ngèo nhưng rất khéo giao thiệp, được cụ Đặng Đình Điển tín dụng kết nạp vào VNQDĐ thuộc Chi bộ Tỉnh Thái Bình

(2) Nguyễn Tiến Nguyên tục gọi Khóa Nguyên, sinh ngày mồng 10 tháng 5 năm Mậu Tý tại làng Liễu Ngạn thuộc tỉnh Bắc Ninh, thuộc dòng dõi Ôn Như Hầu. Gia nhập VNQDĐ từ đầu năm 1928. Bị HĐĐH kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo.

 Tháng 10 năm 1945 từ Côn Đảo trở về Sài Gòn, tiếng súng xâm lăng bắt đầu nổ, cụ Nguyên lưu lại miền Nam, tham gia kháng chiến.

 Cuối năm 1957, bị đau nặng phải điều trị tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, được đồng chí săn sóc rất chu đáo. Nhưng tuồi cao bịnh trọng, cụ đã trút bỏ linh hồn vào ngày 13 tháng 7 năm 1958. Tang lễ được các đồng chí lo liệu một cách trọng thể.

(3) Nguyễn Thị Thuyết con gái cụ Đốc Học Kiều, quê quán tại làng Mai Xá (tục gọi làng Bườn), tổng Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, lấy ông Chánh Tổng Toại, một điền chủ ở làng Dục Tú, huyện Đông Ánh, tỉnh Phúc Yên. Nguyễn Thị Thuyết tính tình cực kỳ ngay thẳng, hào hiệp, can trường và thao lược. Ngoài việc quán xuyến ruộng, vườn, chị Thuyết còn là người kinh doanh về thương mãi rất lớn và có tài chuyên buôn nha phiến và súng đạn.

 Là một nữ cán bộ VNQDĐ từ cuối năm 1928, chị Thuyết đã phụng sự Đảng một cách trung thành và tận tụy. Bị Hội Đồng Đề Hình kết án 5 năm tù ở về tội tiếp tế vũ khí và tiền bạc cho loạn đảng. Trong khám đường Hỏa Lò, Hà Nội, Nguyễn Thị Thuyết đối đãi với đồng bạn rất tử tế, nên các phạm nhân phụ nữ đều kêu chị là “Mẹ”.

(4) Nguyễn Chí Chữ là Chủ Tịch Thành Đảng bộ Hải Phòng.

(5) Phạm Văn Tình là Ủy Viên Tổng Bộ.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đọc chương tiếp]

 

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (6)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương VI: “CHUẨN BỊ TỔNG KHỞI NGHĨA

 THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG VI: CHUẨN BỊ TỔNG KHỞI NGHĨA

 HỘI NGHỊ ĐỨC HIỆP 

 Trung tuần tháng 5-1929, Đại Biểu Đại Hội toàn quốc lại được bí mật triệu tập họp tại làng Đức Hiệp, phủ Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh.

 Trước hết Nguyễn Thái Học thuyết trình về tu chính một số điều khoản trong bản điều lệ Đảng.

 Theo điều lệ mới, thấy rõ sự khác biệt quan trọng với những quy luật lúc đầu, chỉ có mục đích không thay đổi. Tất cả các tổ chức đều biến đổi và ba viện họp thành cơ quan tối cao của đảng, nay chỉ còn một cơ quan duy nhất: “Tổng Bộ Chiến Tranh”.

 Mỗi Chi Bộ không quá 10 người, mà phải là những người có đầy đủ tư tưởng cách mạng. Gặp cơ hội thuận tiện, các Chi Bộ sẽ biến thành “NHÓM CHIẾN ĐẤU”.

 Sau phần Đại Hội thông qua điều lệ mới, Nguyễn Thái Học thuyết trình tiếp:

 – “Đứng trước hoàn cảnh hiện tại, Đảng chúng ta phải lãnh đạo nhân dân làm cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” gấp rút mới được. Nếu để chậm lại theo đúng chương trình Đảng đã dự liệu, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị thực dân bắt hết, sẽ chết dần mòn trong nhà tù, Đảng chúng ta sẽ tan! Nghĩa là cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” nội trong năm nay. 

 Vậy ngay từ giờ phút này, các đồng chí trong nhà binh phải chú ý đến phương pháp tấn công, các địa điểm chiến lược… Các đồng chí dân sự phải chăm lo rèn dũa gươm, dáo, chế tạo bom, đạn, cùng sự tập luyện võ nghệ để đợi ngày…”

 Nguyễn Thái Học dứt lời, các Đại Biểu tranh luận sôi nổi. Một phái tán thành chủ trương của Đảng Trưởng, một phái chủ trương chưa nên khởi nghĩa vội, vì lực lượng Đảng còn kém, đánh tất phải bị thua, thua tất bị thực dân khủng bố dữ dội, dân khí sẽ vì thế mà thui chột mất hàng chục năm. Phái này mệnh danh là “phái Trung lập hay Cải tổ”, do Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Tiến Lữ, Lê Tiến Sự chủ trương.

 Đến khi giơ tay lấy biểu quyết, thì phái chủ chiến đã thắng. Sự chuẩn bị cho cuộc “TỔNG KHỎI NGHĨA” bắt đầu tiến hành một cách hăng say gấp rút.

 Sau cùng, Tổng Bộ thảo ra một bản kế hoạch “Tổng Công Kích” với mấy điểm chính dưới đây:

 1. Đảng chỉ huy một cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” cùng một lúc đánh vào những đô thị lớn và những yếu điểm quân sự của Pháp quân.

 2. Võ khí giết giặc phần chính là nhằm vào những võ khí cướp được của Địch, và những bom, đao, kiếm do chính Đảng tự chế tạo ra.

 3. Lực lượng chính trong cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” là những binh sĩ của Đảng trong hàng ngũ địch, lực lượng phụ là toàn thể Đảng viên ở ngoài Binh đoàn.

 4. Quân kỳ dùng trong cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” có hai mầu: mầu vàng và mầu đỏ (màu vàng tượng trưng cho dân tộc, mầu đỏ tượng trưng cho tranh đấu, nghĩa là dân tộc nổi dậy tranh đấu giành độc lập).

 5. Quân trang: Đảng quân mặc quần áo ka-ki màu vàng, đội mũ có vành lưỡi trai, đi giày cao su, tay phải đeo băng vải vàng có chữ “VIỆT NAM CÁCH MẠNG QUÂN.”

 6. Công tác cấp tốc là phải nỗ lực tuyên truyền sâu rộng, và mạnh mẽ thêm trong giới binh sĩ Pháp ngoài Binh đoàn của Đảng, đồng thời lập ngay nhiều “xưởng chế bom”.

 Chương trình “TỔNG KHỞI NGHĨA” cách ít ngày sau đã được Bộ Chỉ Huy tối cao chấp thuận. Việc “TỔNG KHỞI NGHĨA” chỉ còn là vấn đề thời gian.

 Xúc tiến công cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA”,  Nguyễn Thái Học rất lấy làm lo ngại, vì chưa tìm được đồng chí nào có đủ khả năng để phụ trách tổ chức Binh Đoàn của Đảng ở Tỉnh Yên Bái, một yếu điểm quân sự ở miền Thượng Du.

 Sau một hồi suy nghĩ, Sư Trạch đề nghị nên trao trọng trách ấy cho nữ đồng chí Nguyễn Thị Giang, có Đỗ Thị Tâm và Nguyễn Thị Bắc trợ lực chắc chắn sẽ thành công.

 Quả thật vậy, vượt qua bao thử thách và bao gian nguy trở ngại, cô Giang đã thành công rực rỡ trong sứ mạng mà Đảng đã giao phó. Cô Giang đã làm việc không biết mệt!

 Sư Trạch xin tự đảm trách việc tuyên truyền ở các sơn môn, đạo hữu để ủng hộ Đảng về cả mặt tinh thần lẫn vật chất, đồng thời xin chịu trách nhiệm huấn luyện các đồng chí về kiếm thuật để áp dụng cấp thời vào công cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA”. Ngoài ra Sư Trạch còn lãnh nhiệm vụ bảo vệ tính mạng cho lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Ngoài Sư Trạch, còn xuất hiện một số nhân tài mới, tài ba xuất chúng: Ký Con, Lương Ngọc Tốn, Trịnh Văn Yên…

 Sau khi hội nghị giải tán, còn lại ba lãnh tụ: Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Nguyễn Thái Học đưa ra ý kiến là không nên để cho các đồng chí quân nhân biết trước vội chương trình hoạt động, bởi tính tình họ dễ bồng bột và cũng dễ nguội lạnh. Nhất là đồng chí Phạm Thành Dương chỉ nên trao phó trách nhiệm tổ chức quân sự ở một khu Hà Nội mà thôi. Tuyệt đối không để cho biết Đảng còn có những binh đoàn khác ở những nơi nào. Phải tuyệt đối đề phòng khi mưu cơ của chúng ta bị lộ hoặc có kẻ mưu phản Đảng, sẽ không liên hệ đến các binh đoàn khác.      

 BIẾN CỐ QUAN TRỌNG 

 Vụ thứ nhất xảy ra vào ngày 30 tháng 10 năm 1929 tại nhà Lương Văn Trạm ở làng Mỹ Điền, thuộc tỉnh Bắc Giang, bỗng phát lên tiếng nổ vang trời dậy đất.

 Tiếng nổ ấy từ một gian buồng kín phát ra, làm một bức tường đổ, mái nhà bị lật tung. Lương Văn Trạm từ ngoài vội vàng chạy vào, thì thấy ba đồng chí coi việc chế bom thịt xương bị dập nát, mặt mũi xém đen sì, máu me chan hòa, cả ba nói không thành tiếng. Liền được vực cả lên tấm thảm, rồi vội vàng nhặt nhạnh quần áo nát cùng giấy tờ đem thiêu hủy cho phi tang.

 Phút chốc bọn hương lý cùng tuần phu ùn ùn kéo tới bắt trói LươngVăn Trạm. Khám xét trong phòng, người ta thấy một số dây đồng, mảnh thủy tinh, mạt gang cùng các hóa chất còn lung tung bừa bãi, và lạ nhất là dưới đất có đến hơn 40 cái lỗ tròn… họ cho là những lỗ để đúc bom!

 Lương Văn Trạm bị giải lên sở mật thám, bị tra tấn tàn nhẫn mà vẫn không sao biết được tên ba người hy sinh vì nghĩa vụ cao cả ấy là những ai? Người anh ruột của Trạm là Chánh Hội Mỹ Điền lập tức được trát bắt, nhưng đã trốn thoát được.

 Phạm Công Tạo, Trần Ngọc Liên, Vũ Văn Dương, Đỗ Đức Hoạt, Cả Cai, Khóa Yễn… là những người thường hay lui tới nhà Lương Văn Trạm đều bị bắt cả, sự thực họ đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ tích cực chế tạo bom, tuyên truyền kết nạp thêm, võ trang đồng chí, đánh tráo lấy địa đồ quân sự… đều nằm trong túi Khóa Yễn, một vai trọng yếu trong Tỉnh Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.

 Bị giam cầm cho mãi tới sau khi Hội Đồng Đề Hình giải tán, vụ này mới đưa ra xử trước trước Tòa Án Đệ Nhị Cấp tỉnh Bắc Giang.

 – Ngày 20 tháng 11, chính quyền thực dân khám phá được 130 trái bom chôn dấu tại làng Phao Tân.

 – Ngày 23 tháng 12, khám phá được 150 trái bom tại làng Nội Viên.

 – Ngày 26 tháng 12, khám phá được 250 trái bom ở Thái Hà Ấp.

 – Ngày mồng 10 tháng Giêng năm 1930, khám phá được nhiều chum sành chứa truyền đơn cách mạng ở Lục Nam (Bắc Giang), kêu gọi dân chúng và binh sĩ cùng đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng.

 Bởi bắt được số truyền đơn này, nên sở mật đã báo động tất cả giới hữu quyền và đặt họ phải đề phòng chống lại một phong trào bạo động có thể xảy ra! Những biện pháp canh phòng được áp dụng một cách nghiêm ngặt và khẩn cấp (1).

 – Đến ngày 20 tháng Giêng, chính quyền thực dân lại khám phá bắt được xưởng chế tạo đao, kiếm và tiếp tục những ngày sau còn khám phá được nhiều trái bom được chế tạo tại nhà Tổng Hội ở làng Kha Lâm (Kiến An) và các làng khác.

 Sau những vụ khám phá trên, tờ báo “Volonté Indochinois” ở Hà Nội viết: “Những trái bom đó có lẽ là do mấy người lính An Nam qua Pháp hồi trước đã từng ra chiến trận, và đã từng làm việc trong các kho thuốc súng, nay về nước bắt chước mà làm, vì xét những trái bom giống như đạn hạt lựu (grenade) dùng trong khi Đức, Pháp chiến tranh mới rồi!”

 Sự thực những trái bom của VNQDĐ mà chính quyền thực dân đã khám phá được, là do một thanh niên đảng viên là Trịnh Văn Yên chế tạo ra.

 Tóm lại, từ cuối tháng 10 năm 1929 đến tháng Giêng năm 1930, chính quyền thực dân đã khám phá được trước sau là 70 nơi chứa bom, đao, kiếm, truyền đơn, cờ quân phục… của VNQDĐ.     

 NGUYỄN THÁI HỌC, NGUYỄN KHẮC NHU, PHÓ ĐỨC CHÍNH BỊ BẮT HỤT 

 Ngày 17 tháng 12 năm 1929, có 2 kẻ (2) đến mật báo cho sở mật thám biết nơi ở của Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính hiện ở nhà Lý Cả làng Võng La, tổng Hạ Bì, huyện Thanh Thủy (Phú Thọ).

 Thừa lệnh quan thầy, Phạm Thành Dương tức Đội Dương hướng dẫn một tên mật thám mặc trá hình đeo lon cấp hạ sĩ quan nhà binh đi kèm bắt Nguyễn Thái Học. Nhưng Đội Dương không rõ địa thế làng Võng La! Giáo Phú (3) cho Đội Dương hay: Võng La là một làng cách mạng, ngày đêm quanh làng có người canh gác, chỉ có lối ra vào bờ sông là không có. Vậy khi đến bắt nên theo lối ấy mà vào. Theo lời Giáo Phú, Đội Dương đi theo lối bờ sông vào, quả nhiên anh em không kịp đề phòng vào báo trước. 

 Sớm ngày mồng 8 tháng 12 năm 1929, theo chân Đội Dương, Riner Thanh Tra mật thám cũng cầm đầu một toán mật thám bổ vây xung quanh làng Võng La, trừ mặt sông.

 Vào nhà Nguyễn Tiến tức Lý Cả, Phạm Thành Dương có vẻ không được tự nhiên như mọi lần gặp gỡ trước. Đội Dương giới thiệu với ba ông Học, Nhu, Chính: “Đây là một đồng chí trong ban Tham mưu Cách mạng quân đi theo để bảo vệ cho Tham Mưu Trưởng”.

 Xét thấy thái độ và cử chỉ của Phạm Thành Dương có vẻ khả nghi, Phó Đức Chính liền bấm Nguyễn Thái Học lui vào phía nhà sau, khuyên nên đề phòng. Khi trở ra phòng ngoài, trên mặt án thư có đặt khay trà, Đội Dương cùng người tùy tùng ngồi một bên, ba ông Học, Nhu, Chính cùng ngồi một bên mời nhau uống trà và hỏi thăm tin tức.

 Nhưng chốc lát lại thấy Đội Dương ngó đồng hồ đeo tay, mà bàn tay lại thấy run rẩy, hình có sự ước hẹn cùng ai! Phút chốc Đội Dương liền đứng phắt dậy, thò tay vào túi quần, tên tùy tòng cũng đứng dậy theo.

 Nhanh như chớp, Xứ Nhu co chân đạp thật mạnh vào án thư, rồi ù té chạy, Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính cũng tiếp tục chạy mỗi người một ngả.

 Bị té nhào một cách bất ngờ! Chúng vội vàng đứng dậy, hai bàn tay run run, chĩa súng bắn theo Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính, Học và Chính ngã vật xuống đất, nằm giả đò chết thật. Đội Dương và tên tùy tùng bỏ đó, một tay cầm súng, một tay giắt chiếc xe đạp vội rượt theo Xứ Nhu. 

 Thừa dịp Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính tức thì trở dậy tẩu thoát. Phó Đức Chính bị đạn xuyên qua ngang phần vú lặn vào thịt không sao lấy ra được, trở thành một cái tật, sờ vào thấy lục cục, được các đồng chí cấp tốc đem dấu kín trong kẹt một đống rơm. Nguyễn Thái Học không bị một vết thương nào! Vội vàng vượt qua hàng rào từ nhà này sang nhà khác, chạy thoát ra được ngoài đồng theo lối tắt. Một lão nông đương đập đất thấy Nguyễn Thái Học chạy tới, vội trút cái áo tơi đang khoác trao cho Thái Học, và chụp lên đầu ông chiếc nón lá, và trao luôn chiếc vồ đập đất. Còn ông già thì vơ chiếc điếu cầy ra ngồi đầu bờ ruộng vờ hút thuốc canh chừng cho Nguyễn Thái Học. Nguyễn Thái Học vờ đập đất một hồi, rồi vác vồ lùi dần khỏi địa phận Võng La, tìm đến nhà một đồng chí ở làng kế cận cải trang, rút lui dần về miền xuôi, làng Mỹ Xá (Hải Dương).

 Nguyễn Khắc Nhu vượt hàng rào rút lui ra bờ sông tại một bến bí mật, có thuyền chờ sẳn đưa đi thoát.

 Nghe tiếng súng nổ, những đồng chí canh gác ở ngoài liền chạy vào tiếp cứu. Đội Dương e ngại mất mạng, không dám xục xạo đuổi theo nữa! Chỉ còn biết thủ thế đợi đồng bọn thám tử mai phục ở ngoài nghe hiệu kéo vào. Vào tới đầu làng, chúng bắt gặp người trong làng vác cầy vác cuốc ra đồng, coi như không có việc gì đã xảy ra ở trong làng cả! Bọn mật thám chia nhau: một mặt bắt người làng phải tập họp cả lại, để chúng nhận diện từng người, một mặt chúng sục vào từng gia đình lục soát. Kết quả bọn mật thám không tìm thấy ba ông Học, Nhu, Chính, đành bắt gia đình Lý Cả, Lý Hai và cụ Bá Hộ, thân sinh ra hai ông trên đưa về sở mật thám Hà Nội để điều tra ít ngày, rồi chuyển lên giam ở đề lao tỉnh Phú Thọ.

 Kế ngày 23 tháng 12 năm 1929, Ủy ban quân, chính của Đảng ở địa phương Hải Phòng cũng bị mật thám đến vây bắt giữa lúc đang hội họp. 

 THI HÀNH BẢN ÁN PHẠM THÀNH DƯƠNG 

 Trước khi diệt giặc ngoài, cần phải phải diệt hết giặc trong, ấy là cả hai cha con Phạm Thành Dương tức Đội Dương. Dương là con trai viên giáo học Phạm Huy Du, lúc thiếu thời, Phạm Thành Dương là học sinh trường Bưởi, sau khi tốt nghiệp thi vào trường thuốc (École de Médecine), theo học đến năm thứ hai thì bỏ dở, sang Vientiane (Ai Lao) được bổ làm thư ký ở tòa Khâm Sứ, tính ham chơi cờ bạc, nên đeo công mắc nợ. Phạm Thành Dương bỏ việc trốn vào Hà Nội. Tại Hà Nội, Dương xin đăng lính sở Tầu Bay ở Bạch Mai và nhân có học lực khá, Dương được cử theo học lớp hạ sĩ quan ở Chùa Thông (Sơn Tây).

 Đầu năm 1928, do một đảng viên là Giáo Phú giới thiệu, Nguyễn Thái Học đích thân đến đồn binh Chùa Thông tuyên truyền và kết nạp Phạm Thành Dương vào VNQDĐ. 

 Giữ chức trưởng ban Binh Vụ, Phạm Thành Dương đã tuyên truyền và kết nạp được rất nhiều quân nhân đồng chí, tỏ ra là một đảng viên rất nhiệt thành xứng đáng.

 Đến cuối năm 1929, Đội Dương bắt đầu thay đổi chí hướng, thoạt đầu Dương bí mật báo sở mật thám đến vây khám cơ quan chế bom của Đảng ở căn nhà số 7 bis Vĩnh Hồ, rất may những người có phận sự ở nơi đó đã trốn thoát được cả. Tiếp theo, Đội Dương dẫn mật thám đến đào được ở gò Điện Khí, ấp Thái Hà, tìm thấy 700 trái bom do Đảng chôn dấu, để dùng trong trường hợp tấn công phi trường Bạch Mai.

 Ngày 8 tháng 12, Đội Dương dẫn một toán mật thám lên vây làng Võng La, để bắt Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính.

 Bị thất bại ở Võng La, quay về Hà Nội, Đội Dương tố cáo những binh sĩ trong các Chi bộ Binh đoàn của đảng ở Hà Nội, khiến một số bị tù, một số bị lột lon đổi đi các đồn binh hẻo lánh. Y lại còn tố cáo với chính quyền thực dân là VNQDĐ đương sửa soạn ráo riết cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA, nhưng chưa biết rõ Đảng ấy ấn định cuộc khởi nghĩa vào tháng nào!!! (4)

 Theo báo cáo của ban Đặc vụ VNQDĐ thì nguyên nhân việc Phạm Thành Dương tạo phản là do Phạm Huy Du được biết người con trai yêu quí của ông là Phạm Thành Dương, là một đảng viên trọng yếu của VNQDĐ. Ông liền tìm đến Léonet là giám đốc các trường tiểu học Pháp-Việt, tỏ nỗi lo âu. Cách ba ngày sau, Giáo Du được mời đến sở mật thám, Arnoux dọa khéo nhà giáo về khuyên nhủ con phải bỏ VNQDĐ mà theo về với chính phủ Bảo Hộ.

 Giáo Du về nhà khuyên con, dọa Đội Dương nếu không tuân lời, thì ông sẽ nói với Tây bỏ tù và sẽ đưa ra Côn Đảo. Đội Dương còn ngần ngừ chưa quyết định thái độ.

 Cách vài ngày sau, Phạm Huy Du và Phạm Thành Dương được giấy mời lên Phủ Toàn Quyền. Pasquier long trọng trao tặng cho Phạm Huy Du chiếc “Mề Đay (Médaille) tím” và tước hàm “Hồng Lô Tự Thiếu Khanh”, còn Phạm Thành Dương được đặc lĩnh một ngân khoản ngoại phí mỗi tháng là 1.000 đồng.

 Sau khi nhận được hồ sơ đầy đủ, Nguyễn Thái Học quyết định đưa hai cha con Phạm Thành Dương ra xử trước Tòa Án Cách Mạng Tối Cao của Đảng vào ngày 20 tháng Giêng năm 1930.

 Tòa Án Cách Mạng được tổ chức tại làng Yên Quyết thuộc khu Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội, do Nguyễn Khắc Nhu ngồi ghế Chánh Án, chiếu tội trạng quyết nghị xử tử “cha con Phạm Huy Du”.

 Khi ám sát đoàn được lệnh thi hành bản án, Ký Con trao trách nhiệm việc giết Phạm Huy Du tức Giáo Du cho Nguyễn Văn Nho, (5) việc giết Phạm Thành Dương cho Nguyễn Xuân Huân, Nho và Huân hân hoan nhận lãnh nhiệm vụ. Hai anh theo dõi điều tra đường lối, cũng như giờ giấc đi về của cha con Giáo Du.

 Theo kế hoạch định, thì cùng một lúc sẽ giết cả hai cha con tên phản đảng, nên Nho và Huân không hành sự ở nơi rất thuận tiện, phố Gia Ngư, nơi nhà vợ lẽ của Giáo Du, mà hàng ngày khi đi dạy học từ trường Hàm Long về, y thường ghé qua. Căn nhà chính của y là ngõ Hồng Phúc, Phạm Thành Dương cùng ở chung với cha.

 Nguyễn Văn Nho năm ấy mới 17 tuổi, Nho xung phong lãnh nhiệm vụ. Ký Con e rằng Nguyễn Văn Nho còn ít tuổi thiếu kinh nghiệm, nên cử Nguyễn Xuân Huân, một tay thiện xạ trợ lực. Nhưng với tinh thần tôn trọng kỷ luật Đảng tiêu diệt kẻ phản bội, Nho đã thành công trong sứ mạng.

 Hôm ấy là ngày 22 tháng Giêng năm 1930, vào hồi 12 giờ trưa, trong khi phố xá còn đông đúc người qua lại, từ các công tư sở, các trường học, xe cộ tấp nập trên các nẻo đường thành phố, và mọi gia đình đang chuẩn bị dùng bữa, thì tại ngõ Hồng Phúc sau phố Hàng Đậu, bỗng phát ra hai tiếng nổ xen lẫn với các tiếng nổ khác của máy mô tô, ô tô qua lại. Hôm ấy là ngày 22 tháng 1 năm 1930.

 – Xe nổ lốp!

 Có người cãi lại:

 – Pháo đùng đấy, Tết đến rồi mà! 

Ít ai nghĩ đến tiếng súng lục, vì đã từ lâu, khu phố này vẫn yên ổn. Trong khi đó tại nhà số 34 ngõ Hồng Phúc có tiếng gõ cửa dồn dập, từ trong nhà một cô gái 17, 18 tuổi ra mở cửa thấy hai thanh niên (Nho và Huân) đang chăm chú nhìn vào trong nhà, cô gái liền hỏi:

 – Các ông hỏi gì?

 – Cụ ông bị cảm, thầy Đội (Đội Dương) có nhà không hở cô?

 – Anh tôi đi Bạch Mai không có nhà, ông nói cậu tôi bị cảm ở đâu?

 – Cụ nằm gục trên vỉa hè kia kìa, cô vào gọi người nhà ra khiêng cụ về nhà xoa dầu cho cụ.

 Liền đó hai thanh niên dảo cẳng lẫn trong đám người qua lại mất dạng.

 – Đây là một vụ ám sát, người đội mật thám ở khu đó biết trước nhất, liền đi gọi dây nói báo cho sở Mật thám hay.

 Từ trên xe cẩm Mật thám Puy Giôn (Pujol) và nhân viên sở Căn cước vội vàng nhảy xuống làm phận sự điều tra.

 Theo cuộc khám nghiệm, thì nạn nhân chết bởi hai viên đạn cỡ 6,35, một viên đi từ phía sườn bên mặt làm trúng gan, chạm đầu tim phía dưới xuyên qua lưng bên trái, một viên làm gẫy xương đùi bên phải và còn vướng ở đấy.

 Nhà cầm quyền Pháp ra lệnh truy tầm thủ phạm ráo riết, vì thừa biết đây là một vụ án vì lý do chính trị. Các người tình nghi đều bị bắt, tất cả bút tích trong hồ sơ của các chính trị phạm đều được đem ra giảo nghiệm với những nét chữ viết bằng mực tím trên mảnh giấy tìm thấy bên cạnh tử thi, để tìm tự dạng.

 Theo lời khai của nhân chứng quan trọng thứ nhất là anh phu xe kéo ông Giáo Du khai trước nhà đương cuộc, thì vụ án mạng ấy xảy ra như sau:

 – Khi anh kéo chủ anh (Giáo Du) từ trường về đến gần nhà, thì thấy hai thanh niên đã chờ sẵn ở đấy, một thâm thấp, nhỏ nhắn, trắng trẻo, chặn xe lại nói:

 – Thưa thầy cho phép con thưa một việc.

 Chủ anh liền ra hiệu cho anh ngừng xe, rồi bước xuống vỉa hè bảo anh:

 – Giắt xe về để tôi đi bộ mấy bước.

 Thanh niên vừa giơ một tờ giấy vừa nói:

 – Có bức thư trình thầy.

 Chủ anh giơ tay cầm mảnh giấy giở ra xem, thì liền đó có tiếng nổ và chủ anh ngã vật xuống. Anh sợ quá, bỏ xe chạy trốn về nhà một bà cô của anh ở bãi Phúc Xá…

 Cho mãi đến sau ngày TỔNG KHỞI NGHĨA bị thất bại, Nguyễn Văn Nho bị bắt, cẩm Puy-giôn hỏi:

 – Ai dạy anh bắn súng?

 – Tôi tự học lấy, Nho thản nhiên trả lời.

 – Người cùng đi với anh là ai?

 – Chúng tôi không hề quen biết, chúng tôi chỉ nhận nhau bằng ám hiệu.

 – Ai ra lệnh?

 – Đảng quy, vì khi gia nhập Đảng, Phạm Thành Dương đã thề: “Nếu phản bội sẽ chịu tử hình”. Vậy thì bất cứ người đảng viên nào cũng phải có hành động như Đảng quy đã định.

 – Nguyễn Thái Học có chủ tọa Tòa Án Cách Mạng không?

 – Tôi làm sao mà biết được.

 Puy-giôn liền rút ở ngăn kéo bàn giấy ra một mảnh giấy viết bằng mực tím, đã tìm thấy ở cạnh thi hài Giáo Du, giơ cho Nho coi và hỏi:

 – Ai giao bản án này cho anh?

 – Một người bí mật.

 Và dưới đây là nguyên văn bản án xử tử cha con Phạm Thành Dương:

 “ Nước mất nỡ ngồi yên!

 “ Đạo trời đâu có thế,

 “ Cha con Giáo Du,

 “ Can tâm làm tay sai cho giặc Pháp,

 “ Tiết lộ bí mật của Đảng! Phản bội đồng chí,

 “ Phải chịu tử hình trước Đảng! Trước cả quốc dân!

  “Tòa Án Cách Mạng VNQDĐ”.

 Còn Phạm Thành Dương từ ngày ra mặt công khai phản Đảng, luôn ẩn mình trong sở Mật thám, thậm chí đến khi cha y bị giết chết, y cũng không dám trở về nhà để đi đưa đám. Nguyễn Xuân Huân theo dõi, mãi đến ngày 30 tháng 5 năm 1930, mới hạ thủ được Phạm Thành Dương tại phố cửa Đông Hà Nội. Đội Dương bị đạn xuyên qua lưng đứt tới một khúc ruột, nhưng y còn khỏe, vùng dậy rút súng bắn theo, viên đạn vô tình lại bắn trúng vào đùi một xa phu.

 Vào nằm điều trị tại bệnh viện, Phạm Thành Dương được chính quyền Mẫu Quốc phái một viên quan cai trị vào gắn cho một tấm huy chương và được phi cơ chở qua Mẫu Quốc chữa khỏi.

 Được sống thêm 15 năm. Đến cuối năm 1945, Phạm Thành Dương đã bị cách mạng quân giết chết tại đồn điền của y tại tỉnh Phú Thọ. 

 HỘI NGHỊ LỊCH SỬ TẠI VÕNG LA VÀ MỸ XÁ 

1 

Vì tình thế mỗi ngày mỗi bất lợi cho Đảng, lãnh tụ Nguyễn Thái Học cấp tốc từ Kinh Bắc trở lên Phú Thọ, triệu tập họp khẩn cấp vào ngày 26 tháng 1 năm 1930 tại làng Võng La.

 Mặc dầu Nguyễn Thái Học, Xứ Nhu và Phó Đức Chính đã bị Đội Dương phản bội mưu bắt hụt tại làng Võng La này, nhưng nhờ địa thế cũng như vấn đề nhân sự, việc tổ chức Đại Biểu Đảng vẫn rất thuận lợi có bảo đảm.

 Dự Đại Hội khoảng 20 người, nhưng hầu hết Đại Biểu ở miền Trung Du. Khi Nguyễn Thái Học từ ngoài tiến vào, các Đại Biểu mới an tọa, không khí phòng họp trở nên im lặng trang nghiêm.

 Nguyễn Thái Học cất tiếng:

 – “Thưa các đồng chí,

 Chúng ta làm cách mạng bằng sắt máu, bao giờ cũng phải lấy lực lượng quân đội làm phần chủ lực. Nay Phạm Thành Dương đã tạo phản, phần chủ lực đã bị sứt mẻ rồi! Phần khác, số khí giới dự trữ cũng bị địch khám phá được rất nhiều. Nếu nay chúng ta không hành động ngay, thế tất số võ trang đồng chí và số võ khí còn lại, cũng sẽ bị địch làm tan vỡ hết! Đến khi ấy chỉ còn lại một số ít bom xoàng dáo nhụt, với những đội tiện y ô hợp, thì liệu chúng ta có thể chiến đấu với những đạo quân có tổ chức và huấn luyện kỹ càng, cùng khí giới tinh nhuệ được không?

 Người ta bảo: Cần phải đứng trước ở chỗ không thua! Nhưng chúng ta thì đứng trước ở chỗ thua mất rồi! Thế nhưng liệu chúng ta hãy hoãn để tổ chức lại rồi mới đánh có được không? Tôi tin rằng không thể được! Cuộc đời là cả một canh bạc, gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch hết cả vốn.

 Gặp thời thế không chìu mình, Đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã xen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi của sẽ không tiếp, người sẽ bị bắt lần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các nơi phòng ngục trại giam âu là chết đi, để lại cái gương hy sinh phấn đấu cho người sau nối bước.

 Chúng ta KHÔNG THÀNH CÔNG THÌ THÀNH NHÂN, có gì mà ngần ngại!”

 Trần Hải đứng lên tiếp lời:

 – “Chúng ta có cả ngàn Chi bộ dân sự, bốn năm trăm Chi bộ nhà binh, cùng sự ủng hộ của đồng bào, lực lượng chúng ta không đến nỗi yếu kém!

 Chúng ta đứng vào thế cưỡi cọp, không thể lùi bước được nữa, tôi đề nghị Đảng TỔNG KHỞI NGHĨA”.

 Nguyễn Thái Học đưa cặp mắt nhìn qua một vòng rồi nói:

 – “Vậy chúng ta hãy biểu quyết xem có tán thành TỔNG KHỞI NGHĨA ngay chưa? Tán thành xin giơ tay?”

 Không một ai ngần ngừ, mọi người đều giơ tay “Tán Thành”.

 Qua giây phút im lặng, Nguyễn Thái Học hướng về từng người nhận xét, rồi phân công:

 HƯNG HÓA, LÂM THAO: Do đồng chí Xứ Nhu đảm trách. Dưới quyền có các đồng chí Đảng viên Học Sinh Đoàn và Binh Đoàn Khố Xanh.

 PHÚ THỌ: Do đồng chí Nguyễn Văn Toại (tức Đồ Thúy), Phạm Nhận (tức Đồ Điếc), Lê Xuân Huy và Bùi Xuân Mai đảm trách chỉ huy các đồng chí Đảng viên thuộc năm phủ, huyện trong tỉnh và Binh Đoàn Khố Xanh.

 YÊN BÁI: Do đồng chí Thanh Giang và Nguyễn Nhật Thân hiệp cùng các đồng chí Đảng viên địa phương, các đồng chí Binh Đoàn Khố Đỏ do Quản Cần phụ trách. Ngoài ra còn có đồng chí Nguyễn Thế Nghiệp sẽ đem quân từ Vân Nam về tiếp viện.

 Để các đồng chí khỏi thắc mắc, Nguyễn Thái Học nói tiếp:

 – Còn một số đồng chí vắng mặt hôm nay vì lý do đặc biệt, sẽ được phân công những nơi khác, để TỔNG KHỞI NGHĨA cùng ngày. 

 Rồi ra lệnh giải tán, sau khi cho biết thêm là sẽ có lệnh về ngày giờ TỔNG KHỞI NGHĨA. 

2 

Sau Hội nghị Võng La, Nguyễn Thái Học liền trở xuống làng Mỹ Xá thuộc phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, triệu tập hội nghị khẩn cấp.

 Cũng như hội nghị Võng La, các Đại Biểu đều đồng ý là phải tổng động viên làm cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA ngay, dù chết thơm danh, còn hơn âm thầm để rồi chịu tan rã. Nguyễn Thái Học quyết định phân công:

 SƠN TÂY: Do đồng chí Phó Đức Chính đảm trách, hợp với các đồng chí Đảng viên Vệ Binh Đoàn Đồn Tông.

 HẢI DƯƠNG: Do đồng chí Trần Quang Diệu đảm trách.

 HẢI PHÒNG, KIẾN AN: Do các đồng chí Vũ Văn Giản, Nguyễn Văn Chấn và Phạm Văn Tình lãnh nhiệm vụ phát khởi cuộc khởi nghĩa Kiến An và Hải Phòng.

 BẮC NINH, ĐÁP CẦU, PHẢ LẠI: Do Nguyễn Thái Học đảm trách, chỉ huy các đồng chí địa phương hợp với các đồng chí Binh Đoàn Bắc Ninh, Đáp Cầu và Phả Lại.

 Còn Hà Nội, xét vì lực lượng Đảng tương đối yếu, vì sự tạo phản của Phạm Thành Dương, nên giao cho Ký Con chỉ huy đoàn quân cảm tử làm công tác nghi binh để cầm chân quân Pháp và thức tỉnh đồng bào. 

3 

E có sự trở ngại cho cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu bí mật ra lệnh cho Ký Con phải thủ tiêu Lê Hữu Cảnh;  Cai Hồng phải thủ tiêu Nguyễn Đôn Lâm, những phần tử chủ trương chống đối cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA. Kết cục Nguyễn Đôn Lâm đã bị Cai Hồng bắn một phát súng lục vào sau bả vai ở Hải Phòng, nhưng Nguyễn Đôn Lâm đã im lặng tìm bạn chữa khỏi còn Lê Hữu Cảnh thì Ký Con không nỡ hạ thủ.

 Mặc dầu có sự xô xát nội bộ, nhưng cả Lâm và Cảnh đã nêu một tâm hồn cao cả, chỉ biết đại nghĩa là trọng, không một ai tỏ ý thù hằn hay oán trách, họ vẫn một lòng phụng sự Đảng.

=======================

Chú Thích:

(1) Theo tài liệu của Louis Marty, giám đốc sở mật thám Đông Dương viết trong cuốn “Contribution à l’ histoire des mouvements politique de l’ indochine Francais.”

(2) Sau đó đã điều tra tên tuổi 2 kẻ đi tố giác với sở mật thám, nên ngày 10.1.1930, hai kẻ ấy bị đưa ra bờ sông Đà. Một người bị giết bằng súng lục, kẻ kia lãnh ba viên nơi ngực nhưng trốn thoát.

(3) Giáo Phú tức Vũ Đình Phú, nguyên quê quán Hải Dương, chính là người giới thiệu Phạm Thành Dương với Nguyễn Thái Học hồi đầu năm 1928 tại Đồn Tông. Giáo Phú đã bị xử tử sau vụ này ít ngày. 

(4) Sau vụ Võng La, Phạm Thành Dương được đặc phái sang làm thanh tra sở mật thám Bắc Việt.

(5) Nguyễn Văn Nho là bào đệ Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học. Xin xem tiểu sử ở “Thiên Phụ”.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đây đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (7)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương VII: “TỔNG KHỞI NGHĨA

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG VII: TỔNG KHỞI NGHĨA 

TẤN CÔNG YÊN BÁY

1  

Từ sau hội nghị lịch sử tại Võng La và Mỹ Xá, những vụ xét nhà bắt người tình nghi diễn ra như cơm bữa, sự giao thông liên lạc trở nên chậm trễ khó khăn giữa ba lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đang ở một ngôi chùa trên núi Yên Tử. Sau cuộc thảo luận sôi nổi, ba yếu nhân ấy đồng ý quyết định “TỔNG KHỞI NGHĨA” vào đêm mồng 10 rạng ngày 11 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Khắc Nhu lập tức trở lên Phú Thọ, Yên Bái truyền mệnh lệnh này.

Cũng vì vấn đề liên lạc hết sức khó khăn, mệnh lệnh chuyển đến các đồng chí phụ trách miền Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An bị chậm trễ, sự tập hợp Đảng viên các địa phương không thể kịp định kỳ. Họ lập tức cử Đại Biểu tìm gặp Nguyễn Thái Học viện đủ lý do, khẩn khoản yêu cầu dời cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA đến ngày 15 tháng 2 năm 1930.

 Từ giã Yên Tử, Phó Đức Chính về Sơn Tây, ở nhà đồng chí Quản Trạng làng Nam An thuộc huyện Tùng Thiện, tiếp được lệnh hoãn ngày TỔNG KHỞI NGHĨA của Nguyễn Thái Học, liền phái liên lạc là Lý Sự (La Hào) sang ngay xã Sơn Dương thông báo với Nguyễn Khắc Nhu.

 Trong những giờ phút nguy hiểm ấy, cán bộ Đảng Cộng Sản Đông Dương rải truyền đơn khắp nơi, tố cáo VNQDĐ sắp tấn công Bắc Kỳ. Cô Giang cầm tờ truyền đơn trao cho Nguyễn Thái Học xem, Nguyễn Thái Học đập bàn thét to:

 – “Tôi không tin! Vì có thể nào anh em Cộng Sản lại có thể hành động như vậy được!” 

Sơ đồ Tổng Khởi Nghĩa Yên Báy (10-02-1930)

 

2 

Tờ mờ sáng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, tức ngày 12 tháng Giêng năm Canh Ngọ, ngày đầu xuân, dân chúng trai thanh gái lịch, rộn rịp du xuân và trẩy hội Đền, Chùa.

Hiệu Kỳ Tổng Khởi Nghĩa ngày 10/02/1930

 Lợi dụng cơ hội thuận tiện ấy, dưới làn mưa phùn gió nhẹ, ấm áp hơi xuân, Chi bộ phụ nữ VNQDĐ gồm 15 người do Nguyễn Thị Bắc tổ chức, phụ trách chuyển vận số vũ khí từ Phú Thọ lên Yên Bái bằng đường Hỏa Xa. Chuyến sớm hoặc chuyến chiều. Các cô trá hình người buôn bán gạo, cám, rau, hoa quả, v.v… gồng gánh những vật kềnh càng như kiếm trường, mã tấu… Còn nam Đảng viên hơn 300 người từ khắp các làng quê tỉnh Phú Thọ, phân tán thành từng nhóm trong tấm áo bông dài, họ dấu súng lục, lựu đạn, dao găm… cũng giả đò làm khách đi lễ Chùa, nhân ngày Hội Đền Nga Quán, cách thành phố Yên Bái độ 3 cây số ngàn. Nhóm xuống ga xe lửa Yên Bái, nhóm xuống ga Văn Phú. Tất cả đều bình an vô sự. Từng nhóm được hướng dẫn di tản vào khu rừng sơn.

 Tại sân ga Yên Bái, Nguyễn Thị Giang đứng đợi sẵn để đón tiếp những đồng chí phụ trách từ Phú Thọ lên. Cô Giang rỉ tai Thanh Giang:

 – “Hình như đại sự của Đảng ta đã bị tiết lộ. Thiếu Tá Le Tacon đã ra lệnh bố trí canh phòng nghiêm mật”.

 Thanh Giang nóng lòng hỏi gặng:

 – “Thế Hà Văn Cấp ra sao?” (1)

 – “Cấp bị tình nghi, Le Tacon ra lệnh giam lỏng, chúng ta mất liên lạc đã từ hai ngày rồi!”, Cô Giang đáp.

 Tiếp Cô Giang hướng dẫn các đồng chí của cô đến rừng Sơn, rồi đi thông báo với các đồng chí lãnh đạo Binh đoàn.

 Bóng chiều đã xế, núi rừng âm u, các đồng chí lãnh đạo cấp dân sự đến nơi hẹn gặp các đồng chí Binh đoàn, do sự giới thiệu của Cô Bắc. Cai Nguyên bắt đầu vào đề:

 – “Tôi muốn anh em hoãn lại tấn công Yên Bái? Vì anh Quản Cần (2) vắng mặt không?”

 Cai Hoằng đứng phắt dậy, rút thanh kiếm đeo dài bên mình ra đáp:

 – “Lệnh Đảng đã ban ra, ai muốn cản trở hãy coi cây sơn này!” Dứt lời, Cai Hoằng liền vung kiếm chém mạnh vào cây sơn đứt làm đôi. Mọi người im lặng, không khí ngột ngạt khó thở.

 Cuộc họp bắt đầu, mọi người đồng thanh tiến cử Cai Hoằng thay thế Quản Cần ngồi ghế chủ tọa. Cai Hoằng nhìn thẳng vào mặt các đồng chí của anh, rồi nói: 

 – “Hiện tình lúc này, chúng ta chỉ có tiến, mà không có thoái, anh em nghĩ có phải thế không?” 

 Mọi người đồng thanh đáp: “Phải”.

 Cai Hoằng tiếp lời:

 – “Súng của chúng ta hiện trong Cơ Binh không có dự trữ, vậy việc đầu tiên để anh em dân sự có súng đầy đủ và để địch không thể kháng cự lâu dài là chúng ta phải đánh chiếm ngay kho vũ khí, để phân phối cho dân quân cách mạng.”

 Cai Hoằng hănh hái lên tiếng:

 – “Tôi tình nguyện sẽ giết cho bằng được Quan Ba Jourdain. Nếu không lấy được đầu nó, tôi sẽ thay đầu tôi cho anh em. Còn anh Thuyết và anh Tính phải lấy cho kỳ được đầu tên Quan Hai Pháp”. 

 Tiếp Ngô Hải Hoằng tức Cai Hoằng phân công:

 – “Anh em quân nhân chúng ta, cứ mỗi người có bổn phận dẫn theo hai đồng chí dân sự. Phá kho súng xong, phải đến ngay khu Hạ Sĩ Quan Pháp và da đen để trợ lực cho toàn thể đồng chí ở đấy, để giết cho bằng hết bọn chúng. Như vậy ta có thể xem việc đánh trại dưới xong, rồi tiến lên đồn Cao”.

 Trại dưới là trại nằm dưới ngọn đồi trong thành phố, còn trại trên, nằm trên ngọn đồi xa thành phố, gọi là đồn Cao do Thiếu Tá Le Tacon chỉ huy.

 Tiếp tục cuộc họp, Cai Hoằng trịnh trọng rút trong túi ra một mảnh giấy gồm 7 điều thuộc Quân Luật, do anh soạn thảo, nghiêm giọng đọc:

 I. Gặp giặc mà lùi  Chém

 2. Cướp đoạt của dân  “

 3. Hãm hiếp phụ nữ  “

 4. Ngầm ý giúp giặc  “

 5. Liên lạc với giặc  “

 6. Tiết lộ bí mật của Đảng “

 7. Bất tuân luật chỉ huy “

 Cuộc họp đến đây giải tán. Mọi người im lặng chờ giờ khởi sự sắp tới. 

3 

Quang cảnh thành phố Yên Bái vào buổi chiều ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930 có một điều mà người ta lấy làm lạ! Là rạp chiếu bóng (Cinema) mỗi buổi chiều thường đông đảo và bị quấy phá, nhưng buổi chiều hôm đó lại vắng vẻ im lặng. Ngoài đường phố thì lại đông người qua lại. Một Sĩ quan Pháp hỏi? Viên Thông Ngôn trả lời:

 – “Tại nhân dịp đầu xuân, nên có nhiều người đi lễ Chùa Than”.

 Đến hồi 20 giờ, Đại Úy Gainza từ ngoài phố trở về trại, đã thấy Đội Vinh đợi sẵn, Vinh nói:

 – Xin Đại Úy đừng ăn cơm.

 – Tại Sao?

 – Có thuốc độc.

 Đội Vinh vừa nói vừa run! Tối nay những người Pháp ở trong trại sẽ bị giết hết. Kho đạn sẽ bị cướp phá, cờ cách mạng quân sẽ kéo lên nóc thành.

 – Mày say mèm rồi nói láo chứ gì!

 – Tôi quả không say.

 Giữa lúc đó Trung Úy Espiau tới, hai người bàn nhau: Họ quyết định bỏ bữa cơm, rồi cùng dẫn Đội Vinh vào trình Thiếu Tá Le Tacon. 

 Đội Vinh khai:

 – Tôi trông thấy nhiều người tụ họp với nhau ở rừng sơn dưới chân đồi, mà mỗi người lính của chúng ta đều nhận được chỉ thị của bọn cách mạng.

 Le Tacon hỏi:

 – Chính mắt mày có nhìn thấy đám đông tụ họp ấy không?

 – Tôi không trông thấy, nhưng có Binh Tài là người anh em họ với tôi đã trông thấy và biết rõ tất cả.

 Le Tacon cho Đội Vinh rút lui, rồi giải thích cho hai sĩ quan biết rằng:

 – Chính Binh Tài nó đã đến nói với tôi việc ấy rồi, nhưng tôi tin rằng không có sự thực, chẳng qua Binh Tài nó muốn quan trọng hóa nó đấy thôi!

 Tuy nhiên cả ba người cùng đi xuống chân đồi tới rừng sơn để xem xét tình hình, nhưng chẳng thấy gì hết! Le Tacon nói:

 – Thôi chúng ta về đi ngủ thôi, chẳng có gì đâu! (3) 

4 

Giờ tác chiến sắp đến, các chiến sĩ chia từng nhóm rời rừng Sơn theo hướng dẫn viên tiến tới điểm tập trung. Các đồng chí quân nhân đi trước, dân quân cách mạng theo sau.

 Tin từ trong trại cho biết tình hình yên tĩnh, không có hành động phòng bị nào cả! Cai Hoằng ra hiệu tiến lên! Các chiến sĩ tiến tới bao vây các trại đã được phân công từ trước đợi lệnh.

Tiếng chuông Nhà Thờ điểm đúng một giờ sáng, tiếng súng lệnh bắt đầu nổ: “Đoàng”, phá tan bầu không khí im lặng, sương mù dày đặc bao phủ bầu trời thành Yên Bái, báo hiệu cuộc “Tổng Khởi Nghĩa” bắt đầu.

 – Giết! Giết hết tụi giặc Pháp!

 Tiếng hô to vang dậy của các chiến sĩ cách mạng như sấm sét động trời!

 Kho quân nhu bị phá cửa, lấy súng đạn phân phát đầy đủ cho dân quân cách mạng.

 Một lát sau, Trung Úy Robert, Thượng Sĩ Cunéo, Trung Sĩ Chevalier, Damour, Bouhier đều bị giết chết.

 Đại Úy Jourdain ở phía sâu yếu điểm, hô lệnh tập trung quân, lập tức bị Ngô Hải Hoằng bắn một viên đạn nổ chết ngay. Đại Úy Gainza bị thương ở sườn. Ngoài ra còn có hàng chục sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính bị thương.

 Tiếng reo hò từ các trại vẫn vang lên lẫn tiếng súng “ Đoàng, Đoàng”!

 Báo cáo từ các doanh trại về ban chỉ huy cho biết cách mạng quân hoàn toàn chiến thắng, làm chủ tình hình đồn dưới. Lúc ấy vào 4 giờ sáng ngày 11 tháng 2 năm 1930.

 Đường dây thép, điện thoại cũng bị cách mạng quân cắt đứt, trừ đường Yên Bái – Lao Kai.

 Các nơi hiểm yếu, Cai Hoằng, Cai Nguyên cắt đặt bố trí canh phòng cẩn mật, sửa soạn tiến đánh Đồn Cao.

 Lá cờ VNQDĐ tung bay phất phới khắp mọi nơi trong trại và đường phố.

 Một cuộc họp khẩn được triệu tập ngay tại văn phòng viên chỉ huy Jourdain để thảo kế hoạch tấn công vào Đồn Cao.  

 Thừa thắng, một số chiến sĩ đề nghị nên tấn công ngay Đồn Cao, một số cho rằng dầu sao thì Đồn Cao cũng đã được Le Tacon chuẩn bị đề phòng rồi, nên đợi khi trời sáng rõ hãy tấn công. Cấp chỉ huy chấp thuận đề nghị này.

 6 giờ, trời tảng sáng, Ngô Hải Hoằng ra lệnh tập họp, truyền mọi người trở lại đơn vị chuẩn bị tiến đánh Đồn Cao.

 Đường phố còn ướt đậm sương đêm, nghe tiếng reo hò, dân chúng đổ xô ra, mọi người đều vui mừng hô vang:

 – “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”

 – “Hoan hô Việt Nam Cách Mạng Quân”

 Cách mạng quân tiến đến gần Đồn Cao, thì phi cơ địch từ Hà Nội cũng bay tới, lượn vòng vào thành phố rồi xả súng bắn xuống đầu mọi người như trận mưa bão, trúng cả bộ chỉ huy.

 Một số đề nghị nên tập họp cách mạng quân bao vây quanh Đồn, chờ viện binh Nguyễn Thế Nghiệp; một số khác đề nghị nên tạm rút vào rừng. Trước tình cảnh rối loạn, Cai Thuyết, Cai Hoằng đành thúc thủ, không còn cách nào khôi phục lại trật tự. Đành chấp nhận đề nghị tạm rút vào rừng.

 Sau khi rút lui vào rừng, kiểm điểm lại chỉ còn phân nửa Cách Mạng Quân.

 Nóng lòng trả thù cho bọn Sĩ Quan bị giết, ngay buổi chiều ngày 11.2.1930, thực dân đưa hai chiến sĩ Cai Nguyên, Cai Tính ra bắn chết, không cần đợi ngày đưa ra tòa xử.     

 TẤN CÔNG HƯNG HÓA, LÂM THAO 

 Mặc dầu Hưng Hóa chỉ là một đồn binh Khố Xanh thuộc tỉnh Phú Thọ, nhưng lại là một điểm quân sự rất quan trọng. Nên từ đầu năm 1929, Đảng đã đặc phái một số cán bộ Đảng đến tuyên truyền, thành lập được Binh Đoàn tại đấy, gồm toàn Cai, Đội và Quản, cấp chỉ huy.

 Các võ trang đồng chí ấy nhất đáng đã bị ông Trưởng Ban Binh Vụ “xơi” hết cả rồi! Đảng đã mất hẳn lực lượng trung kiên ấy.

 Nhưng không vì thế mà bỏ dở chương trình “Tổng Khởi Nghĩa”, Nguyễn Khắc Nhu đã huy động toàn thể đảng viên địa phương: Lâm Thao (Phú Thọ), Bất Bạt (Sơn Tây) tập trung lực lượng tấn công địch, mặc dầu không có đại bác, liên thanh!

 Đúng hồi 1 giờ đêm mồng 10 tháng 2, Nguyễn Khắc Nhu có phụ tá là Nguyễn Văn Toại (tức Đồ Thúy) ra lệnh bắc loa chĩa vào đồn kêu gọi binh sĩ hãy quay súng lại giết giặc, trở về với hàng ngũ cách mạng quân để phụng sự Tổ Quốc.

 Sự kêu gọi của Nguyễn Khắc Nhu được đồn trưởng ra lệnh trả lời bằng một loạt súng từ trong đồn bắn ra.

 Nguyễn Khắc Nhu liền ra lệnh cho Cách Mạng quân liệng bom vào công phá đồn và hô xung phong. Công phá luôn mấy tiếng đồng hồ, tuy trong đồn bị thiệt hại nặng nề, nhưng Cách Mạng quân cũng không thể nào tiến được! Mà số bom, đạn, bình phụt lửa cũng gần cạn. Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh tạm lui quân về phía bờ sông, chờ số võ khí sắp tiếp viện tới.

 Khoảnh khắc sau, số vũ khí từ các làng lân cận đã chuyển vận tới. Nguyễn Khắc Nhu nhận thấy tấn công đồn binh Hưng Hóa không có lợi, ông ra lệnh cho cách mạng quân tiến phía phủ lỵ Lâm Thao, lúc ấy vào hồi 3 giờ sáng.

 Tới phủ lỵ Lâm Thao, dân chúng nổi lên hưởng ứng reo hò như sấm động: “Hãy bắt cho bằng được tên quan sâu mọt Đỗ Kim Ngọc! Giết ngay nó đi để trừ hại cho nhân dân”. “Hoan hô VNQDĐ muôn năm!” Nhưng thừa khi nhốn nháo ấy, lại nhân trời còn bóng tối, Tri phủ Đỗ Kim Ngọc cùng lính tráng trong phủ đã thừa cơ hội trốn thoát hết.

 Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh tịch thu súng đạn, thiêu hủy công văn, thượng Đảng Kỳ lên nóc phủ đường, tập họp dân chúng, rồi đăng đàn diễn thuyết, hô hào toàn dân đoàn kết chống thực, phong, hoàn thành sứ mạng cứu quốc và ra lệnh đốt hết phủ đường.

 Vừa dứt lời, thì truy binh từ Phú Thọ, Hưng Hóa kéo tới vây chặt bốn phía. Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh dàn quân ra nghênh chiến, chiến đấu đến cùng. Nguyễn Khắc Nhu bị trọng thương ở nơi chân. Để tránh sự bị rơi vào tay địch, ông đã dùng lựu đạn tự sát, ruột lòi cả ra ngoài mà vẫn không chết được! Địch quân bắt trói để lên trên một cái võng, phái lính giải về đồn binh Hưng Hóa. Thừa khi đi sát bờ sông, ông đã nhảy xuống sông tự trầm, nhưng cũng không thoát.

 Chauvet, phó Công Sứ tỉnh Phú Thọ ra lệnh tạm giam Nguyễn Khắc Nhu vào lô cốt đồn binh Hưng Hóa rồi hỏi:

 – Tại sao ông lại làm loạn?

 – Tôi là dân Việt Nam có bổn phận bảo vệ đất nước Việt Nam. Đó là việc hợp với lẽ phải và nhân đạo, sao lại bảo là làm loạn! Nguyễn Khắc Nhu trả lời.

 Chờ cho Chauvet ra khỏi lô cốt, Nguyễn Khắc Nhu (4) liền đập đầu vào tường đá đến ba lần mới chết được. Cách mạng quân bị bắt hết. Địch bị chết và bị thương hơn 20 tên. (5)

SƠN TÂY

Việc Yên Bái thất bại rồi! Cái hùng tâm của Phó Đức Chính chưa chịu chết! Anh cùng các đồng chí ở Yên Bái thoát vòng vây ra được, lập tức lại đi liên lạc các anh em, thu thập tàn lực, định hạ thành Sơn Tây.

 Thế nhưng “mưu sự tại Nhân thành sự tại Thiên”. Ngày 12, bao nhiêu bom đạn để ở Quảng Húc đều bị chính quyền thực dân khám phá được, rồi sáng ngày 13, Phó Đức Chính, Cai Tân cùng Thanh Giang Nguyễn Văn Khôi đương bàn việc ở nhà một đồng chí là Quản Trạng, xã Nam Man, tổng Cẩm Hương, huyện Tùng Thiện, bị một giáo viên trường tiểu học xã Nam Man có tư thù với Quản Trạng, mật báo với chính quyền Pháp Sơn Tây bắt giải về Hà Nội.

 Để hiểu rõ Phó Đức Chính một cách vô tư, chúng tôi xin trích dịch một đoạn dưới đây của ký giả Louis Roubaud viết về Phó Đức Chính trong cuốn “Việt Nam Tragédie Indochinoise” nguyên văn như sau:

 “Là một thanh niên 23 tuổi, mà tù đày làm ông hao mòn gầy guộc. Thể xác béo mập có trước kia, thật là hiếm trong chủng tộc ông, nên trông ông có vẻ là một người Tầu, nếu ông có khổ người bình thường của người An Nam. Trên khuôn mặt ông biểu hiện sự lầm lì, nhưng lời nói cắt quãng, bỏ nửa lời, có vẻ lo âu huyền bí kia, làm chúng tôi phật lòng luôn luôn với hầu hết những người ở xứ này. Cái vẻ nhìn chân thực, thông minh với tôi, thì ông không có gì là gì trẻ con! Phó Đức Chính không phải là người nhà quê! Ông theo ban trung học và đã làm hành chính cho Pháp với chức cán sự chuyên môn công chính, nhưng ông ta có tâm hồn một người lãnh tụ, khi đảng phái quốc gia bị thiệt thòi một vài Đảng Viên đắc lực nhất, tiếp theo là vụ bắt bớ vào tháng Hai 1929, Phó Đức Chính bị HĐĐH bắt giam, và bị kết án hai năm tù treo, ông là người phụ tá của ông Nguyễn Thái Học rất đắc lực.

 Tuổi trẻ không mấy ưa kiên nhẫn của ông cũng không thể thừa nhận một phong trào cách mạng lâu dài, đi xa hơn, ông ước rất chính đáng về vụ đổ máu đêm mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930 một khi chấm dứt đã đem lại hừng đông độc lập. Chính ông cũng sửa soạn kế hoạch chung.

 Ông đã sống những tuần linh động nhất, tay cầm bút hoạch định đường lối tiến quân của cách mạng An Nam trong việc xung phong chiếm đồn Pháp. Cũng vẫn như thế, rồi ông định đánh chiến trận quan trọng nhất do chính ông chỉ huy xung phong tấn công Sơn Tây. Đại tướng đã trải qua một đêm bi thảm rồi chờ đội quân cảm tử Lao Kai, Yên Bái, Hưng Hóa tới.

 Một mình ông đứng trước bức tường thành cổ kính lăng tẩm vua Minh Mạng mà cách đây 40 năm, ông vua ấy định tiến quân, song quân quá ít, và một người chỉ huy già dặn kinh nghiệm, đô đốc Courbet.

 Trước ủy ban hình luật, Phó Đức Chính (6) có một thái độ rất tư cách, tránh được sự khoe mình. Ông chỉ đòi hỏi những trách nhiệm của mình, ông là kẻ duy nhất trong số người bị kết án, ông từ chối ký chống án trước Hội đồng Bảo hộ.” 

 TRÊN CẦU LONG BIÊN 

 Sáng sớm ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, Lương Ngọc Tốn, trưởng ban ám sát của VNQDĐ được tin Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao khởi nghĩa vào tối 10 tháng 2, vội vàng từ Bắc Ninh sang Hà Nội tìm Ký Con để hỏi thăm tin tức, rồi trở liền về Bắc Ninh để cấp báo với Nguyễn Thái Học.

 Để tránh sự phí phạm thời giờ, từ Hà Nội, Lương Ngọc Tốn thuê riêng một chiếc xe hơi kiểu du lịch để trở về Bắc Ninh, xe chạy rất nhanh đến cầu Long Biên về phía gần ga Gia Lâm, lúc ấy vào hồi 12 giờ 15 phút, Đội cảnh sát là Saint Denis đứng gác trên cầu, ra hiệu bắt xe ngừng lại cho y khám. Không một giây phút chần chờ, Lương Ngọc Tốn rút ngay khẩu súng lục bắn trúng tay và đùi Saint Denis. Cảnh sát trên cầu nghe tiếng còi báo động, liền hô nhau đuổi theo. Lương Ngọc Tốn liền bỏ xe hơi cắm đầu chạy theo mé sông Hồng Hà, dân chúng trong phố Ngọc Hà không hiểu gì, thấy cảnh sát hô đuổi cũng xô nhau đuổi theo. Tốn phải móc túi tung giấy bạc lại phía sau cho bọn này nhặt, mới khỏi bị đuổi nữa!

 Được phi báo, Giám Đốc Chính Trị hành chính là Lacombe cũng đích thân đem một đội lính Khố Xanh truy nã.

 Lương Ngọc Tốn chạy đến bến đò Thanh Trì, tên lái đò nhất định không chịu, Tốn phải dí súng vào mang tai tên lái đò, khi ấy y mới chịu chở. Qua được sông Nhĩ, Tốn lại gặp phải bọn Công nhân trong Lò bát Thanh Trì xô nhau ra đuổi. Vạn bất đắc dĩ, Lương Ngọc Tốn phải rút súng bắn ba phát giết chết ba tên, rồi liệng súng xuống sông. Bọn công nhân bắt trói đem nộp cho Chính quyền Thực dân để lĩnh tiền thưởng.     

 NÉM BOM HÀ NỘI 

 Hà Nội chẳng những là Thủ phủ Bắc Việt, mà còn là Thủ phủ cả Đông Dương. Vậy muốn cách mạng ở xứ này, trước hết phải nghĩ ngay đến cách đánh chiếm Hà Nội. Có thể nói rằng “lấy được Hà Nội là lấy được tất cả!” Cho nên ngay từ Tổng Bộ đầu tiên, đã đặc biệt chú ý đến các địa điểm chiến lược và phải cố gắng tuyên truyền vào lớp các Hạ sĩ quan ở trong thành. Và có thể nói là hùng hậu gấp mấy chục lần ở mọi nơi. Nguyên Chi bộ Không quân Bạch Mai có đến 22 đảng viên hầu hết là Cai Đội do Đội Môn tức Trần Văn Môn làm Chi bộ Trưởng. Còn ở hai trại thứ 4 và thứ 9 trong thành và trại binh Khố Xanh, Đồn Thủy, không kể các binh đoàn, chỉ kể nguyên số Cai, Đội, Quản, Đảng đã có đến hơn 200 người là đảng viên cán bộ.   

 Nhưng từ sau ngày mưu phản của Phạm Thành Dương tức đội Dương, thì những đồng chí quân nhân ấy nếu không bị bắt khép án tù thì cũng bị bóc lon, giáng chức đưa đi các đồn lẻ ở Thượng Du làm lính.

 Còn các thường Đảng Viên, như Thư Ký, Giáo Học, Thương Kỹ Nghệ Gia và anh em thợ thuyền, nhưng nếu thiếu các anh em gươm súng thì trong một cuộc cách mạng sắt máu, hỏi làm được việc gì!

 Lực lượng chân chính của cách mạng kể từ ngày Nguyễn Thái Học bị bắt hụt ở Võng La và sau ngày hàng ngàn bom ở Bạch Mai, ở Thái Hà bị khám phá; ở Hà Nội, Đảng chỉ còn lại Đoàn Ám sát là đáng kể thế thôi!

 Đoàn ấy tuy chỉ huy là Nguyễn Khắc Nhu, song lãnh đạo chính là Ký Con Đặng Trần Nghiệp.

 Sau khi chia tay cùng Lương Ngọc Tốn, Ký Con triệu tập 5 đoàn viên trong đội cảm tử là Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Bá Tâm và Nguyễn Quang Triều (7) đều là học sinh trường Bách Nghệ, Hà Nội. Ký Con trao cho mỗi người một số bom, dặn đến đúng hồi 20 giờ phải ném:

20 trái vào nhà riêng Arnoux, chánh Sở Mật thám. (8)

8 trái vào ngục thất Hỏa Lò.

2 trái vào Sở Sen Đầm.

2 trái vào Cảnh Sát Quận I.

2 trái vào Cảnh Sát Quận II

 Và Sau khi làm xong nhiệm vụ, tất cả sẽ về báo cáo công tác tại căn nhà số 24 phố Hàng Giấy. Đồng hồ điểm đúng tiếng thứ 9, Ký Con và 5 đoàn viên khác phụ trách đi cắt giây thép, giây điện thoại trở về đầu tiên, rồi tiếp tục các chiến sĩ ném bom cũng về tới. Chủ nhân số 24 phố Hàng Giấy là ông Đào Tiến Tường mừng quýnh hô gia nhân dọn bàn bày bánh kẹo khao thưởng các chiến sĩ, khoảng khắc sau mọi người đều sửng sốt, nhận ra còn vắng một đoàn viên, đồng chí Nguyễn Bá Tâm.

 Ký Con lập tức phái một đồng chí mở cuộc điều tra, và dưới đây là lời tường thuật lại của Nguyễn Bá Tâm:

 – “… Chắc chắn anh cũng biết, đó chỉ là một chuyện nghi binh, chúng tôi mong làm thế để dân chúng nôn nao và may ra thực dân sợ Hà Nội có biến, không dám đem quân đi đánh các tỉnh… Buổi chiều hôm mồng 10, tôi còn đi học. Hai quả bom gang, tôi vẫn bỏ chơi trong túi, 8 giờ tôi mới đến trước bót Hàng Đậu (quận II) thấy một người vào gõ cửa, tôi ném luôn ngay vào chân nó. Bom nổ nhưng nó lại chạy thoát. Tôi định ném thêm quả nữa, thì một đứa ở đâu chạy lại. Nó chạy mau quá, thành ra vấp vào tay tôi, làm cho bom nổ trong tay! Bàn tay tôi văng đi mất! Tôi cố nhịn đau, chạy lên nằm ở trên cầu, nghĩ thế nào cũng chết, tôi rút dao ra tự tử, nhưng dao cùn quá, đâm mãi cũng không thủng cổ! Bị đau quá! Bấy giờ tôi nằm không yên nữa, đành phải gọi xe kéo tôi vào nhà thương. Chúng nó cắt cụt tay tôi, chữa cho tôi lành. Lành, rồi chúng tra tấn cực kỳ dã man!

 Nghĩ chối mãi, chúng đánh cũng chết, tôi đành nhận là thủ hạ của Ký Con. Chúng hỏi Ký Con ở đâu? Tôi khai anh thường nằm ở các khách sạn, không chỗ ở nhất định. Chúng hỏi Ban Ám sát có những ai? Tôi khai trừ Ký Con ra, tôi chỉ biết Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính chứ chẳng biết ai và cũng chẳng vào chi bộ nào cả…” 

ĐÁP CẦU, PHẢ LẠI 

Sự thực thì về miền Đông Bắc, chỉ có hai địa điểm quân sự quan trọng là Đáp Cầu và Phả Lại. Cả hai nơi, Đảng đã tổ chức từ lâu. Cả hai nơi, các võ trang đồng chí quá khá đông, thế nhưng những võ trang đồng chí ấy đã vì sự phản bội của Phạm Thành Dương tức Đội Dương mà bị bắt hết cả rồi! Còn nguyên các thường đảng viên, Nguyễn Thái Học tính đem toàn lực mà đánh dồn cả vào một nơi “Phả Lại”, họa chăng có được! Một mặt Nguyễn Thái Học ước hẹn với các đồng chí ở Gia Bình, Nam Sách (Hải Dương). Tất cả chia năm đạo quân mà đánh vào. Hẹn đánh là ngày 12 tháng 2. Nhưng đến ngày giờ hẹn, nơi tập trung, thì các đồng chí chẳng thấy Nguyễn Thái Học đâu cả! Mọi người hết sức kinh ngạc, kéo nhau ra về. Mãi hôm sau mới hay tin:

 Bởi mạn ngược đã không theo lệnh, mà đánh trước. Sự đánh sớm ấy gây nên hai hậu quả tai hại:

 1) Việc thất bại ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao gieo vào lòng người sự ngờ vực lực lượng cách mạng.

 2) Nhà cầm quyền Pháp ở các địa phương biết việc khởi nghĩa chẳng phải là tin đồn hão, nên tích cực đề phòng.

 Do sự đề phòng ấy mà ngày 11 tháng 2, Công Sứ và Giám Binh tỉnh Hải Dương đem một đại đội lính Khố Xanh đến vây khám xét làng Mỹ Xá thuộc phủ Nam Sách. Cuộc vây khám ấy tuy không bắt được Nguyễn Thái Học và Trần Quang Diệu nhưng chúng đã bắt được đồng chí Vương Khắc Hội, Trương Khắc Thông và một số vũ khí.

 Qua ngày 12, ngày Nguyễn Thái Học ước hẹn với các đồng chí tấn công Phả Lại, thì Công Sứ và Giám Binh tỉnh Hải Dương lại đem lính Khố Xanh đến vây khám làng Hưng Thăng. Nguyễn Thái Học được dân làng bảo vệ, đưa lội qua ao bèo dầy đặc, ẩn tránh trong bụi rậm, rồi được đưa xuống thuyền bơi ra thoát khỏi vòng vây. Chỉ một chút nữa là bị bắt sống.

 Cũng ngày hôm ấy, Công Sứ và Giám Binh tỉnh Bắc Ninh đem lính Khố Xanh về triệt hạ nhà một cán bộ Đảng là Nguyễn Văn Tuyên tức Chánh Tuyên và tưới xăng đốt cả làng Trụ Thôn cùng chợ Kênh Vàng, nơi cách mạng quân từ các địa phương đã kéo về tập hợp, chờ lệnh Nguyễn Thái Học mà không thấy.

 Trở về địa phương, các đồng chí ở tỉnh Bắc Ninh quyết định tấn công vào đồn binh Đáp Cầu vào đêm 18 tháng 2. Nhưng cũng bị chính quyền thực dân phát giác, nên không thành. Và sau đó một số lớn chất nổ còn được phát giác, nhất là ở vùng Bắc Giang, nơi quê hương của Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thị Giang.

 Cũng đêm 18 tháng 2, một cuộc âm mưu tấn công một huyện trong tỉnh Bắc Giang do các đảng viên địa phương chủ mưu, cũng bị phát giác không thành. (9)

ĐỒN BINH KIẾN AN 

 Tại miền xuôi, bộ Tham mưu VNQDĐ chủ trương đánh chiếm đồn binh tỉnh Kiến An, để rồi từ vị trí này sẽ phát động đi đánh chiếm các nơi khác.

 Ngày 13 tháng 2, theo lệnh bộ Tư lệnh khu Hải Quảng, các Đảng Viên VNQDĐ chuẩn bị đánh chiếm đồn binh Kiến An.

 Các lực lượng võ trang được điều động để tấn công các trại binh Pháp, gồm có:

 – Các Đảng Viên thuộc Tỉnh Đảng bộ Kiến An, do cán bộ Hội chỉ huy.

 – Các Đảng Viên công nhân Khu Đảng bộ Hạ Lý (Hải Phòng), phần đông là thợ thuyền, phu phen nhà máy xi măng, do các cán bộ Trần Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Nuôi chỉ huy.

 – Đoàn cảm tử gồm các thanh niên, học sinh thuộc Thành Đảng bộ Hải Phòng, do cán bộ Nguyễn Huy Thọ chỉ huy.

 – Một số khác gồm 50 Đảng Viên được điều động từ mỏ Mao Khê về, do hai cán bộ Nguyễn Văn Đài và Trần Hữu Quyết chỉ huy.

 – Ngoài ra trong các trại binh Pháp đều có Đảng Viên quân nhân, phần đông là Hạ sĩ quan và binh sĩ, do các cán bộ Mai, San, Sửu chỉ huy, chịu trách nhiệm làm nội ứng.

 Theo đúng quyết đề nghị, thời khởi sự đánh úp các đồn binh Pháp ở Kiến An vào đúng hồi 1 giờ đêm, 13 tháng 2, trong đánh ra và ngoài đánh vào.

 13 tháng 2 nhằm ngày 15 tháng Giêng Âm lịch, trong đêm khuya gió lạnh, các chiến sĩ Việt Quốc được võ trang gươm giáo, bom, súng lục, cánh tay đeo “Đảng Hiệu” nửa đỏ nửa vàng, trên có hai dòng chữ đen: “THỀ GIẾT CHẾT GIẶC PHÁP” – “BỎ MÌNH CỨU NƯỚC NAM”, và mang một băng hiệu dài có hàng chữ lớn “VIỆT NAM CÁCH MẠNG QUÂN” bắt chéo trước ngực qua lưng. Mọi người được sắp thành đội ngũ, tản mác đi tới chờ lệnh công phá các đồn binh địch.

 Đối các Đảng Viên cư ngụ tại Kiến An, Hải Phòng thì có thể tới địa điểm tấn công một cách dễ dàng, nhưng riêng đối với các Đảng Viên từ Mao Khê về, thì thật là một vấn đề nan giải.

 Các chiến sĩ được lệnh tập trung tại An Dương, một khu ngoại ô Hải Phòng. Đồng chí Đài được lệnh phải bố trí anh em quanh trại lính Khố Xanh tỉnh Kiến An trước hồi 1 giờ đêm. Khi thấy bên trại Khố Đỏ có tiếng súng nổ, là xung phong công phá. Một đồng chí quân nhân Chánh quản trong trại binh ấy sẽ sẵn sàng mở cổng trại đón tiếp anh em.

 Nhưng làm cách nào để qua được cầu Niệm? Cây cầu nối liền Hải Phòng – Kiến An, hai đầu cầu đều có quân đội và mật thám canh gác, đò ngang cũng bị tập trung tại chân cầu.

 Đồng hồ đã chỉ 10 giờ 30 phút. Trời tối lại mưa phùn gió bấc thổi mạnh làm da thịt tê tái, lạnh buốt thấu xương. Anh em được lệnh cởi quần áo, cùng võ khí cuốn lại, đội lên đầu buộc chặt xuống cằm, chờ lệnh sang sông.

 Hầu hết các chiến sĩ đều biết bơi và mực nước sông cầu Niệm vào mùa ấy cũng chỉ độ hơn hai thước tây.

 Giữa dòng sông, bỗng một tiếng rú phát lên, ôi thôi! Một đồng chí chết đuối rồi! Một đồng chí, anh Đài, liền lặn xuống mò hồi lâu không tìm thấy, mãi khi bơi vào gần đến bờ mới đụng phải, vội đưa lên bờ làm hô hấp cứu cấp, nhưng vô hiệu.

 “Anh Trần Hữu Quyết đã bỏ dở nhiệm vụ của Đảng trao phó, anh đã trở nên người thiên cổ rồi!”

 Lúc bấy giờ là 12 giờ thiếu 10, còn gần 1 giờ nữa để tới địa điểm tập trung. Anh em liền tập trung dùng gươm, đao đào ngay một cái huyệt bên bờ sông làm lễ mặc niệm an táng đồng chí Quyết.

 Bởi nhật kỳ sai biệt, Yên Bái và các nơi khác đã hành động trước rồi, Pháp quân đã thiết quân luật, bố trí đề phòng, cuộc nội ứng cũng như ngoại công không thành. Khi rút lui qua bến cầu Niệm, địch quân đem binh truy kích, nhưng cách mạng quân đã đi xa.     

 PHỤ DỰC, VĨNH BẢO

 1    

Trở về địa phương, các chiến sĩ VNQDĐ chọn hai huyện Phụ Dực, Vĩnh Bảo, vì hai tên tri huyện này rất độc ác và tham tàn.

 Hồi 20 giờ ngày 15 tháng 2, Hòa Quang Huy, Đào Văn Thê (tức giáo Thê) cùng Nguyễn Văn Hộ chỉ huy 40 võ trang đồng chí đến đánh úp huyện lỵ Phụ Dực thuộc tỉnh Thái Bình. Tri huyện là Trương Trọng Hiền trốn thoát, con gái Hiền là Trương Thị Kim 18 tuổi, đem vàng bạc châu báu ra dâng lễ Cách Mạng quân, nhưng tất cả được trao trả lại. Trương Thị Kim cũng được tha, một thiếu nữ xét ra vô tội.

 Tịch thu được 6 khẩu súng trường và một số đạn rồi bắc loa kêu gọi dân chúng đến tập hợp tại huyện đường, giải thích lý do, kể tội thực phong và kêu gọi đoàn kết.

 5 giờ sáng hôm sau, cho thiêu hủy hết hồ sơ công văn, Cách Mạng quân kéo sang bến đò Nghìn, để sẽ hợp quân lại tiến đánh đồn binh Ninh Giang theo chương trình đã được hoạch định. Nhưng đợi mãi không thấy tới, nên tự giải tán.

2

Cũng ngày 15 tháng 2, tại làng Cổ Am, Trần Quang Diệu tập hợp các đồng chí lại bàn rằng: “Nếu nay chúng ta kéo nhau ngay đến đánh chiếm huyện lỵ Vĩnh Bảo, tất Tri huyện Hoàng Gia Mô sẽ thừa cơ lộn xộn chạy trốn mất. Vậy thiết tưởng nên dùng mưu điệu y ra khỏi huyện lỵ mà bắt, thì hay hơn. Nhân tôi có quen với y, nên vẫn thường đi lại, vậy nay tôi lãnh sứ mạng đến báo tin cho y biết là tôi được tin có một số cách mạng quân nổi lên, định đánh chiếm huyện lỵ chúng ta vào chiều hôm nay, thế tất y sẽ đi báo với đồn Ninh Giang. Thừa khi ấy chúng ta chiếm cứ luôn huyện lỵ và phái một số cách mạng quân ra đón đường giết chết y.”

 Được các đồng chí đồng ý, Trần Quang Diệu liền đến mật báo với Tri huyện Hoàng Gia Mô theo đúng kế hoạch đã trù liệu. Mô hốt hoảng vội kêu tài xế đánh xe hơi ra, có hai tên lính cơ đi hầu, lên đồn binh Khố Xanh, Ninh Giang báo cáo xin quân tiếp viện.

 Hoàng Gia Mô đi khỏi, cách mạng quân liền kéo tới chiếm cứ huyện lỵ không gặp một sự kháng cự nào! Đảng Kỳ liền được thượng lên Kỳ Đài, cách mạng quân chia làm 3 toán: 10 người ở lại giữ Huyện, 10 người phục kích ở đầu làng Nam Tạ đón Hoàng Gia Mô, còn 10 người lãnh nhiệm vụ ra ngoài phố huyện, tuyên truyền giải thích cho dân chúng hiểu rõ ý nghĩa của cuộc cách mạng.

 Thể theo lời yêu cầu, trưởng đồn Ninh Giang cấp cho Hoàng Gia Mô 6 lính Khố Xanh, 6 súng trường và một số đạn. Họ Hoàng có ý nghi ngờ, cho hết lính lên xe hơi chở ra huyện, họ Hoàng còn kêu xe tay kéo theo sau xe hơi. Về tới đầu làng Nam Tạ, cách huyện lỵ độ 50 mét, xe hơi chở lính bị ngừng lại, vì đường bị ngáng bằng cây tre chận ngang. Cách mạng quân tràn ra, liệng vào xe hơi một trái tạc đạn, khiến xe hơi lật nhào xuống ruộng, nhưng nhân đêm tối trời, lính và tài xế thừa cơ chạy trốn. Hoàng Gia Mô khi về tới, thấy xe hơi bị lật nhào, đường bị ngáng, biết ngay có biến, liền xuống xe kéo và được trưởng tuần phố huyện là tên Lợi hướng dẫn vào ngay làng Điềm Liêm, phía sau làng Nam Tạ, lấy quần áo vải nâu cho Hoàng Gia Mô thay, rồi đưa họ Hoàng vào ẩn náu trong một đám rơm sau nhà Ký Toản.

 Được vợ Ký Toản mật báo, vào khoảng 6 giờ sáng ngày hôm sau, cách mạng quân kéo tới, bắn một phát súng vào đống rơm, trúng phải đùi huyện Mô, Mô dãy dụa nhưng không chịu ra; liền bị lôi ra trói lại, xỏ đòn tre vào dây lưng da của huyện Mô khiêng về huyện đường để xét xử. Trần Quang Diệu tuyên bố:

 – “Chúng tôi đến đây với mục đích là đánh đuổi thực dân Pháp và tất cả những ai đã cúi đầu theo giặc làm hại đồng bào.

 Tên tri huyện Hoàng Gia Mô là một trong những tên đã hà hiếp tàn nhẫn, bóc lột đồng bào! Là một tay tôi tớ lợi hại của giặc, chắc đồng bào còn nhớ vụ Hoàng Gia Mô đã mưu mô với bọn thực dân mưu toan chiếm 6.000 mẫu ruộng của đồng bào ở bãi Dương Am để làm tư kỷ. Bản thân nó đã có tội với quốc dân rồi! Đến cha ông nhà nó lại còn đắc tội hơn!”.

 Toàn thể đồng chí cũng như đồng bào có mặt tại đấy đồng thanh yêu cầu xử tử Hoàng Gia Mô.

 Vợ Hoàng Gia Mô dốc hết vàng, bạc, châu báu trong tủ sắt ra làm lễ dâng Cách Mạng quân, xin tha tội chết cho chồng, nhưng bị cực lực khước từ. Còn Hoàng Gia Mô thì kêu van:

 – “Đó là tội của ông cha tôi làm, xin các ông tha chết cho tôi, tôi xin làm một công dân để phụng sự cách mạng, và xin dâng hết của cải cũng như ruộng đất cho cách mạng…”

 Hoàng Gia Mô tức thời bị giết chết bằng một phát súng trường, vất xác xuống dòng sông Cầu Mục.

 Người được thực dân đưa về thay thế Hoàng Gia Mô là Cung Đình Vận. Thừa cơ hội, Cung Đình Vận đã khủng bố lương dân một cách vô cùng dã man để vừa lòng quan thầy thực dân, mà vơ vét tiền bạc của nhân dân không biết bao nhiêu mà kể! Thế mà đến khi Cung Đình Vận bị Việt Minh giết chết hồi đảo chính 1945, Việt Minh lại rêu rao ầm ỹ rằng: “Cung Đình Vận là một cán bộ cao cấp của VNQDĐ”. Ôi thật là tuyên truyền xuyên tạc hết chỗ nói!

 Tính từ ngày chính thức thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng cho đến ngày “TỔNG KHỞI NGHĨA”, vỏn vẹn mới được 2 năm và 1 tháng, tổng cộng là 766 ngày. Đương ở trong thời kỳ tổ chức, như vậy là đã đốt giai đoạn hàng chục năm. Hơn nữa, VNQDĐ tổ chức “TỔNG KHỞI NGHĨA” giữa thời thực dân toàn thịnh, bầy lũ chó săn đông đúc như đàn dòi! Cố Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và cố Chủ tịch Ban Lập Pháp Nguyễn Khắc Nhu lại hoạt động cách mạng trong hoàn cảnh tại đào, bị thực dân kết án khuyết tịch 20 năm cấm cố, thế mà tạo nổi một lực lượng khả dĩ tiến hành được cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA”. Thực là một chuyện phi thường, một kỷ lục không tiền khoáng hậu trong lịch sử cách mạng thế giới.  

 Bởi bí quyết nào các vị tiên liệt tiền bối chúng ta đã làm nên được cuộc “TỔNG KHỞI NGHĨA” oai hùng vĩ đại ấy?

 Cái bí quyết ấy phải chăng là “Hành động và Đoàn kết”, hành động liên tục, đoàn kết chặt chẽ, quang minh chính đại, vô vụ lợi, phát xuất do một tư tưởng cao cả, do những con người đảm lược, lúc nào cũng chỉ biết giữ cho lòng mình trong sạch, không bợn một chút nhơ “DANH LỢI”, chỉ biết phụng sự cho lý tưởng cách mạng một cách sáng suốt, nhiệt thành, dũng cảm vô điều kiện.

 Hành động quang minh, lại vô điều kiện, ánh hào quang chiếu rạng vào lòng dân khiến họ bừng tỉnh, thấu đáo bổn phận người dân đối với đồng bào, với Tổ Quốc mến yêu, khiến họ hy sinh tất cả cho cách mạng. Do đó mà lớn mạnh, bất chấp mọi sự ngăn chặn phá hoại, khủng bố của bè lũ thực dân.

Yếu tố ấy lại được thúc đẩy bởi những sự bạo ngược, tham tàn, thối nát, dã man, vô nhân đạo của thực dân và phong kiến nên đã sớm gây thành “Trận bão lửa cách mạng”, lòa sáng trong đêm lịch sử mồng 9 rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, thiêu hủy cái khí thế hung hăng tàn bạo của bè lũ xâm lăng thống trị và làm choáng mắt bọn “cách mạng áo cơm, cơ hội chủ nghĩa”. 

====================

Chú Thích:

(1) Hà Văn Cấp làm bồi cho Thiếu Tá Le Tacon, được Đảng ra lệnh phải hạ sát Le Tacon, khi nghe tiếng súng báo hiệu.

(2) Bộ tham mưu địa phương Yên Bái gồm có 5 quân nhân: Quản Cần, Cai Thịnh, Cai Nguyên, Cai Thuyết và Cai Hoằng.

Không ngờ đến ngày Tổng Khởi Nghĩa thì Quản Cần bị đau tim nặng, phải điều trị tại bệnh viện Lanessan. Khi hay tin cuộc Tổng Khởi Nghĩa bị thất bại Quản Cần đã hộc máu ra mà chết.

(3) Theo tài liệu của ký giả “Louis Rouband trong cuốn Việt Nam Tragédie Indochinoise.”

(4) Nguyễn Khắc Nhu biệt hiệu “Song Khê”, thi đậu đầu xứ, nên người ta gọi là Xứ Nhu. Ông sinh năm Quý Mùi (1883) tại Phủ Lạng Thương thuộc tỉnh Bắc Giang.

 Cảnh nhà nho thanh bạch, cũng như Tú Xương, nhờ được bà hiền phụ tần tảo bán buôn, nên ông được để cả thời giờ hoạt động cho cách mạng. Con trai ông là ký giả Nguyễn Khắc Trạch cũng là Đảng Viên VNQDĐ bị HĐĐH kết án chung thân, năm 1945 bị tử thương trong trận giao phong ác liệt với Việt Cộng ở tỉnh Sơn Tây.

(5) Theo tài liệu của tạp chí “Phụ Nữ Tân Văn” Sài Gòn.

(6) Phó Đức Chính sinh năm 1897 tại làng Đa Ngưu thuộc tỉnh Bắc Ninh. Tốt Nghiệp trường Cao Đẳng Công Chính, được bổ chức cán sự Công Chính tại tỉnh Savanakhet (Ai Lao) vào đầu năm 1928.

 Là sáng lập viên VNQDĐ. Sau ngày Bazin bị ám sát, Phó Đức Chính bị bắt từ Ai Lao đưa về Hà Nội, bị kết án 2 năm tù treo và bãi chức.

(8) Theo tài liệu của L. Marly, Giám đốc Mật thám Đông Dương, viết trong cuốn “Contribution à l’ histoire des mouvement politique de l’ Indochine Francaise”.

(9) Louis Marty, Giám đốc Mật thám Đông Dương đã viết trong cuốn “Contribution à l’ histoire des mouvements politiques de l’Indochine Francaise” rằng: “VNQDĐ đã có dầy đủ tài liệu về quân lực đóng ở Đông Dương. Các Đảng Viên ghi lực lượng của ta về nhân lực và võ khí. Người ta đã lập bản đồ nơi đóng quân, nơi chứa võ khí và nơi để đạn dược. Cuối cùng nhiều lính pháo thủ đồng lõa với Đảng như những biến cố cho thấy…”

[Bấm vào đọc chương trước]

[Bấm vào đây đọc chương kế]

 


Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (8)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương VIII: “THỰC DÂN TRẢ THÙ

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG VIII: THỰC DÂN TRẢ THÙ 

 PHẢN ỨNG ĐẦU TIÊN CỦA THỰC DÂN

Cuộc biến động Yên Bái mãi đến 9 giờ sáng ngày mồng 10, Công sứ Yên Bái mới đánh được điện tín về Hà Nội, lập tức Nguyên soái Aubert hội kiến với Toàn quyền Pasquier để tìm phương đối phó. Một mặt cho chuyển ngay binh sĩ, khí giới và phi cơ chiến đấu đến tăng cường cho Yên Bái, một mặt ra lệnh báo động các đồn binh trong toàn cõi Bắc Việt.

Tại Hà Nội, các công sở đóng cửa nghỉ ngày mồng 10, quân đội mang khí giới đứng gác khắp các ngả đường, khám xét người qua lại.

Các báo Pháp tại Hà Nội và Sài Gòn đều đăng hàng chữ lớn trên trang nhất: “Theo tin của chúng tôi thì có 2 cơ binh khởi loạn ở Yên Bái. Lính Khố Xanh phụ với lính Pháp đánh lại đội lính khởi loạn. Về phía Pháp có 10 viên quan và cai đội bị giết và mấy chục người bị thương…”

Qua ngày 11, các báo Pháp lại loan tin: “Trước kia tưởng là có 2 cơ binh Khố Đỏ khởi loạn, nay điều tra ra thì chính là vụ âm mưu của Cộng Sản. Có chừng 60 đảng viên Cộng Sản âm mưu với mấy chục người lính khởi loạn, còn lính khác bị hăm dọa phải theo. Đến 6 giờ sáng, thiếu tá Le Tacon đem 2 cơ binh lại đánh, thì loạn quân phải rút vào rừng khoảng Yên Bái, Phú Thọ, họ đem theo được 3 khẩu súng đại bác, 20 súng trường và vài trăm viên đạn…”

Ngày 13, báo “France Indochine” ở Hà Nội, ký giả người Pháp dưới bút hiệu Saint Faust viết rằng: “Trước kia người ta nói là bọn Cộng Sản quấy rối, tôi thì tôi không tin rằng những bọn làm loạn đó là do từ bên Moscou xúi dục, mà chính là do các phong trào cách mạng VNQDĐ xử hồi tháng 7 năm ngoái đã liên miên tới nay, mà gây nên việc rối loạn kia, chứ không phải là Cộng Sản đâu!…”

Các tờ báo Pháp khác, tờ thì đề nghị chính phủ nên mộ lính Lê Dương để thay thế lính Khố Đỏ. Tờ thì đề nghị chính phủ nên hạn chế và sửa đổi chương trình giáo dục, để tránh sự làm loạn của thanh niên An Nam sau này.

Báo “Oeuvre” của tả đảng ở bên Pháp viết: “Điều quan hệ ngày nay là chúng ta phải biết rằng cái chính sách của chúng ta thi hành ở Viễn Đông bây giờ cần phải thay đổi mới được. Bởi rằng không phải mỗi lúc là ông thượng thư thuộc địa cứ đổ cho phong trào cách mạng ở ngoài tràn vào, để che đậy những sự sai lầm của mình mà được đâu!…”

 Báo “Populaire” của Đảng Xã hội Pháp viết: “Xứ Bắc Kỳ đã xảy ra việc gì vậy? Dân ở các thuộc địa ta bên phương Đông đã nổi dậy chống chúng ta, có lẽ nào chính phủ ta giả câm giả điếc hoài hay sao?…”

Ngày 12, toàn quyền Pasquier đáp chuyến xe lửa đặc biệt từ Hà Nội lên Yên Bái để dự lễ tống táng 10 sĩ quan. Trước khi xe lửa tới ga Yên Bái 20 phút đồng hồ, có hai trái bom liệng vào phá hủy một phần nhà ga.

 Bài điếu văn của Pasquier đọc trước linh cữu 10 sĩ quan và hạ sĩ quan có đoạn:

 – “Những đứa khốn nạn muốn sanh sự rối loạn, đặng ngăn trở việc khai hóa của nước Pháp, nhưng chúng đã vấp phải cái thế lực của nước Pháp vững vàng cứng rắn không có sức gì lay chuyển được!

 Nhà nước sẽ trừng trị ngay những kẻ xướng loạn một cách đáo để, đặng phục thù cho mấy người cả Tây lẫn An Nam đã bị hại một cách dã man.

 Mai đây sẽ có Hội Đồng Đề Hình (HĐĐH) xử bọn đó xứng đáng với tội ác của chúng nó…” (1)

Sáng ngày 14, Toàn quyền Pasquier ký nghị định thành lập HĐĐH, cử Poulet Osier, Thanh tra Chính trị Hành chính Bắc Việt là chánh Hội đồng. Sự bắt bớ khủng bố các đảng viên VNQDĐ lan tràn khắp nơi rất dữ dội. Những người bị tình nghi hoặc có tư thù cá nhân với bọn tay sai Thực, Phong cũng bị bắt bớ một số khá đông, ngục thất các tỉnh Bắc Việt cơ hồ không còn chỗ chứa!

Dẹp cuộc Cần Vương khởi nghĩa của cụ Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân được phái đi đàn áp. Nay đến phong trào cách mạng dân tộc của VNQDĐ, chính quyền Thực, Phong cũng cử một vị đại thần là Vi Văn Định (2), Tổng đốc tỉnh Thái Bình, đem một đại đội binh mã đi tiễu trừ các đảng viên VNQDĐ.

Tú Tài Nguyễn Đức Triệu 84 tuổi, Chi bộ trưởng Chi bộ Phụ Dực bị Vi Văn Định dùng chầy giã giò tra khảo đến bỏ mạng. Các đồng chí cùng bị giam với cụ Nguyễn Đức Triệu khi hay tin, có làm câu đối khóc:

“Ngoài tám chục lận đận thân già, bầu nhiệt huyết vẫn lao đao vì Tổ Quốc;

Sau trăm năm rườm rà bụi cỏ, dấu hàn nho còn phảng phất với Giang Sơn” 

 TÀN PHÁ CỔ AM 

Sách Đêm rực lửa Yên Báy (viết 1930 tác giả người Pháp)

Tại Vĩnh Bảo, vào hồi quá trưa ngày 16 tháng 2, một đoàn phóng pháo cơ gồm 5 chiếc bay tới liệng xuống làng Cổ Am 57 trái bom loại nặng 10 ký suốt từ đầu đến cuối làng, rồi bay rất thấp xả súng liên thanh xuống, nhà cửa hầu hết bị cháy rụi, cây cối bị đổ nát hết; làm thiệt mạng 21 người gồm 10 người đàn ông, 5 người đàn bà, 6 trẻ con đều là thường dân cả.

 Thực dân Pháp đã căn cứ vào điều luật 61, tội hình An Nam định rõ:

 “Hương chức Kỳ mục trong làng có trách nhiệm về những vụ trộm cướp, sát nhân, đánh người bị thương, hoặc tất cả hành động phạm pháp của nhóm lạ mặt gây ra thiệt hại cho làng mạc. Nếu họ không thể đương đầu nổi với lực lượng lấn át kia, họ phải xin tiếp cứu.”

 “Điều luật 64 – Họ phải đến trước Tòa để trình rõ về sự kiện và trường hợp trách nhiệm về việc đó, hoặc cá nhân do ủy ban Kỳ mục bầu lên, hoặc trả lời trách nhiệm tập thể, nếu sự kiện kia thuộc về toàn thể hương thôn.”

Những người cách mạng bị bắt hầu hết, duy có Trần Quang Diệu trốn thoát. Tất cả những nhà cửa của những người bị bắt trong hai huyện Phụ Dực và Vĩnh Bảo đều bị đốt phá thành đống tro tàn. Làng Điềm Diêm và phố Hàng Bè, nơi bắt và giết Hoàng Gia Mô cũng đều bị đốt phá hết .

Tiếp đến các làng Phong Cầu, Đồng Tải, Kha Lâm (Kiến An), La Hào, Võng La, Sơn Dương (Phú Thọ)… thực dân cũng đem lính Khố Xanh đến triệt hạ. (3)

Thống Sứ Robin thông tư bằng điện tín cho khắp các Công sứ Chủ tỉnh, nguyên văn như sau:  

 “Village Coam, province de Haiduong, où s’était réfugiée bande rébelles ayant mis à mort sous préfêt de Vinhbao, a été bombardé hier par escadrille Hanoi. Vous prie donner large publicité et ajoute que tout village qui se mettra dans situation analogue subira impitoyablement le même sort.” (4)

Trần Quang Diệu (5) thay hình đổi dạng trốn thoát. Thực dân ra lệnh truy nã, đồng thời bắt khai quật phần mộ cụ thân sinh ra ông Diệu là Trần Văn Dư mới tạ thế được hơn một năm, đem để lộ thiên tại trước cổng Đồn binh Khố Xanh, Ninh Giang. Cho mãi đến tháng 5 năm 1930, sau khi đã bắt được Trần Quang Diệu từ tỉnh Thái Nguyên đưa về giam tại ngục thất Hà Nội, thực dân mới cho phép thân nhân ông Trần Quang Diệu mang thi hài cụ Trần Văn Dư về an táng tại Cổ Am (6). 

NGUYỄN THÁI HỌC BỊ BẮT Ở ẤP CỔ VỊT 

Hưởng ứng cuộc TỔNG KHỞI NGHĨA của VNQDĐ, Lăng Vân, một nhà cách mạng Việt Nam lưu vong ở Trung Quốc, huy động đồng chí từ Long Châu phất cờ cách mạng kéo quân đánh vào phía biên giới Lạng Sơn. Đạo quân này bị đánh tan, Lăng Vân bị nhà chức trách Trung Hoa bắt được ở Bằng Tường đem xử tử.

Tiếp theo Đoàn Kiểm Điểm (7) được các đồng chí lưu vong ở Trung Hoa đặc phái về nước, để quan sát tình hình và đón Nguyễn Thái Học xuất ngoại. Các đồng chí ở trong nước như Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân… cũng khuyên Nguyễn Thái Học:

 – “Anh nên xuất ngoại, để tạm lánh sự không may rất có thể xảy đến. Cái tên anh đã vang dội khắp trong nước cũng như ngoài nước. Anh xuất ngoại sẽ có lợi cho việc ngoại giao của Đảng lắm. Với quốc dân họ coi anh như linh hồn cột trụ vững chắc của Đảng, còn các đồng chí thì vững lòng tin tưởng nương tựa mà theo đuổi công cuộc cải tổ lại Đảng ở bên trong.”

 Nguyễn Thái Học cười đáp:

 – “Không thể được! Không thể được!”

 Nguyễn Thái Học cho rằng việc thất bại vừa rồi là trách nhiệm ở tại nơi mình mà bao nhiêu đồng chí bị giết, bị tù đày! Bao nhiêu gia đình bị tan nát! Bao nhiêu làng xóm bị đốt phá, đồng bào bị ly tán lầm than! Nguyễn Thái Học càng phải ở lại trong nước cùng với các đồng chí còn ở vòng ngoài, để lo cải tổ lại Đảng, làm tròn sứ mạng phục quốc và kiến quốc, mặc dầu phải chịu mọi sự gian lao nguy hiểm.

Nguyễn Thái Học cương quyết không chịu xuất ngoại, thực dân thì ra lệnh lập thêm điếm canh tại các làng, xóm, ấp, trại, các trục giao thông; thông tri cho các quan lại địa phương phải ngày đêm đôn đốc sự canh phòng và khám xét các khách bộ hành qua lại một cách thật nghiêm ngặt. Số thám tử cũng được tăng cường phái đi dọ thám khắp mọi nơi; lại biệt phái một đội lính Lê Dương đi tuần phòng lưu động khắp miền biên giới Việt-Hoa, và các địa phương có địa thế hiểm yếu. Đồng thời cho in hàng vạn tấm hình Nguyễn Thái Học, kèm theo hàng triệu tờ truyền đơn cáo thị dân chúng “Nếu ai bắt được Nguyễn Thái Học, chính quyền thực dân sẽ tặng thưởng một số bạc là 5.000 đồng.” 

 Trong thời kỳ này Nguyễn Thái Học thường lưu trú ở vùng Lương Tài (Gia Bình), thuộc tỉnh Bắc Ninh, vì suốt từ bến đò Kênh Vàng đến Mỹ Lộc. Cả vùng rộng lớn ấy, đều thuộc ảnh hưởng của VNQDĐ.

 Để xúc tiến việc cải tổ Đảng, một hội nghị cán bộ Đảng được triệu tập tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Tuyên tại làng Trụ Thôn, tổng Yên Trụ, thuộc huyện Lương Tài, suốt từ đêm 14 cho đến đêm 19 tháng 2. Sau khi hội nghị bế mạc, Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân cùng một số cán bộ vội vã ra đi. Tiếp đến Nguyễn Thái Học, Sư Trạch, Ký Tiểu, Chánh Kinh, Chánh Tuyên cũng thu xếp ra đi.

Đồng chí Phạm Văn Phổ đề nghị với Nguyễn Thái Học nên đi đường thủy, do các đồng chí địa phương phụ trách thuyền bè và hộ tống, có sự bảo đảm chắc chắn hơn. Nhưng Nguyễn Thái Học nhất định không nghe, cho rằng việc cấp bách mà đi đường thủy sẽ mất rất nhiều thì giờ!

 Vào hồi 8 giờ rưỡi sáng ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học cùng 4 đồng chí bận quâàn áo lối phu mỏ, vai mang đẫy đi qua “ẤP CỔ VỊT” là ấp của tên thực dân Clébert. Phía giáp quan lộ có đặt điếm tuần canh suốt ngày đêm. Vì là ấp của thực dân, nên được đồn trưởng đồn binh Khố Xanh Chi Ngãi phát cho tuần canh 2 khẩu súng trường và mấy chục viên đạn. 

 Thấy người lạ mặt đi qua ấp, 5 tên tuần phu đang ngồi trong điếm canh hô to đứng lại, để xét giấy tờ và khám hành lý. Làm thế nào mà đứng lại để cho bọn tuần phu khám xét được! Nên bắt buộc cứ tiến và liệng lại một trái tạc đạn, để dọa cho bọn tuần phu khỏi đuổi theo; rồi Nguyễn Thái Học cùng Sư Trạch chạy rẽ vào phía rừng. Ngờ đâu bọn tuần phu cũng có súng, vội hô hoán ầm ĩ, xô nhau đuổi theo, nổ súng bắn trúng vào chân Nguyễn Thái Học và Sư Trạch, khiến hai người cùng bị ngã quỵ.

 Anh hùng mạt lộ! Bọn tuần phu đổ xô nhau lại, kẻ dùng dáo, người dùng báng súng đánh đập túi bụi, rồi hô nhau trói lại, khám hành lý và thẻ tùy thân. Nguyễn Thái Học ung dung nói:

 – “Thôi không phải khám xét, chính ta đây là Nguyễn Thái Học, còn đây là Sư Trạch!”

 Bọn tuần phu trố mắt nhìn nhau, rồi nói:

 – Rõ thật khổ quá! Sao các ông không dừng lại và nói thật ngay đi! Nếu chúng tôi biết ông là Nguyễn Thái Học, thì chúng tôi nhất quyết mặc sức cho các ông đi tự nhiên. Bây giờ việc đã trót lỡ mất rồi! Tên Clébert đã biết! Im đi không được! Biết làm thế nào bây giờ?”

 Nguyễn Thái Học mỉm cười nói:

 – “Thôi anh em cứ việc khiêng chúng tôi mà đem nộp cho Tây để mà lãnh 5.000 bạc thưởng!”

Tin đã băét được Nguyêãn Thái Học được cấp báo với Clébert, y bắt mỗi người ngồi vào trong một cái thúng, sai tuần phu khiêng lên nộp đồn binh Chi Ngãi, Clébert tự vác súng đi kèm.

Còn Chánh Kinh, Chánh Tuyên và Ký Tiểu tức Ký Diến, nhân đi phía sau, thừa lúc lộn xộn không ai để ý, chạy thoát vào khu rừng Kiếp Bạc, nghỉ lại một ngày đêm, sớm ngày 21, ba người bơi qua sông Luống để về Gia Bình. Khi bơi ra tới giữa sông, Chánh Tuyên quay lại bảo hai đồng chí:

 – “Thôi vĩnh biệt hai anh! Đại sự đã hỏng mất rồi! Tôi chẳng thiết sống làm gì nữa! Hai anh còn đủ sức khỏe, hãy gắng mà sống để phụng sự Đảng, phụng sự Quốc gia dân tộc!”

 Chánh Kinh và Ký Diến trở về Gia Bình được ít ngày, thì Ký Diến bị Pháp bắt, rồi bỏ mình ngoài Côn Đảo, còn Chánh Kinh trốn khỏi lưới quân thù.

Từ đồn Chi Ngãi, Nguyễn Thái Học và Sư Trạch bị đưa lên Tòa Sứ tỉnh Hải Dương, rồi đưa lên Hà Nội.

Khi hay tin đã bắt được Nguyễn Thái Học, từ chính phủ đến các giới thực dân Pháp đều thở phào lên tiếng “VẬY LÀ XONG VIỆC!” 

Sau khi Nguyễn Thái Học bị bắt, tờ báo “Volonté Indochinoise” xuất bản ở Hà Nội viết: 

“Không, Nguyễn Thái Học chưa phải là lãnh tụ đảng cách mạng đâu!” Báo ấy viết tiếp:

 “Không, chúng ta chưa tóm được mấy tên đầu đảng mà! Chúng nó hãy còn tự do hành động, có lẽ ở ngay bên chúng ta, mà chính phủ chưa tóm được! Chính phủ cũng tự biết vậy! Mà dân cũng biết như vậy! Thế thì bây giờ đã vội nói rằng bắt được những người như HỌC là đầu Đảng, là xong chuyện ư! Có lẽ các quan trên tưởng rêu rao như vậy là có ảnh hưởng gì chăng?

Thật ra, bắt được tên Học cũng là việc hay, chúng bị án quốc sự mà Hội Đồng Đề Hình xử án trảm quyết là đúng.

Song, tôi xin van các ông đừng có bắt chúng tôi tin rằng Nguyễn Thái Học và mấy đứa học trò theo nó, cùng là mấy thằng thợ hồ, mấy thằng điền tốt vào đảng cách mạng, ấy đều là đầu đảng đó. Chúng nó bất quá cũng như bọn lính đồng mưu, gây ra mấy cuộc lưu huyết, chỉ là cái khí cụ, do những tay khác sai khiến, mà lính mật thám chưa tròng khóa vào những tay ấy được!  

Chúng ta cứ vững lòng, nay mai chính phủ sẽ tóm những tay thật là trọng yếu trong đảng cách mạng, rồi chính phủ sẽ nói cho ta biết. Chính phủ sẽ kể cả chức tước của bọn phạm nhân ấy ra nữa! Chừng đó sẽ quên sự đã tặng cho HỌC là lãnh tụ đảng cách mạng. Nhưng hiện bây giờ thì chưa…”

 Báo Volonté Indochinoise ám chỉ ông Quách Vỵ, Tuần phủ tỉnh Hòa Bình. Sự thật ông Quách Vỵ chỉ là một thường đảng viên của VNQDĐ cũng như trăm ngàn đảng viên khác của Đảng. Họ Quách gia nhập VNQDĐ từ đầu năm 1928, ông đã quy tụ được một số các quan lang, thân hào và nhân sĩ vào Tỉnh Đảng bộ ở tỉnh Hòa Bình. Họ Quách rất mực trung thành và còn giúp đỡ cho Đảng nhiều việc rất quan trọng. Vì ông Quách Vỵ có rất nhiều uy tín đối với đồng bào Mường, Mán, thổ dân… Rút dây sợ động rừng, thực dân biết rõ như vậy, nên không dám bắt ông, mà chỉ ra lệnh đề phòng mà thôi. Báo chí thực dân đã vê tròn bóp méo, xuyên tạc sự thực rất nhiều. Điều đó không lấy gì làm lạ!

Trong khi bị giam ở ngục thất Yên Bái, Nguyễn Thái Học có viết hai bức thư bằng Pháp ngữ gửi cho các Nghị sĩ Quốc Hội Pháp và Toàn quyền Đông Dương. Nhưng bị chánh quyền thực dân giữ lại không cho gửi qua Pháp. Bức thư ấy được Ký giả Louis Roubaud theo đúng nguyên ý tóm gọn lại như sau:

 “Messieurs les députés,

 En équité: le droit de tout citoyen est de vouloir sa patrie libre. En humanité: le devoir de tout individu est de secourir son frère malheurex.

 Que vois-je? Depuis plus de soixante ans ma patrie est asservia par vous, Français. Mes frères souffrent sous votre domination, ma race est menacé dans son existence. J’ai donc le droit et le devoir de défendre mon pays et mes frères.

 J’avais d’abord pensé atteindre ce but en collaborant avec vous. Mes échecs répétés m’ont conduit à conprendre que les Français ne désiraient passincèrement cette collaboration et qu’il me serait impossiblé de servir mes conpatriotes aussi longtemps que vous serez les maitres de mon pays.

 J’ai alors, en 1927, organisé le parti nationaliste Anamite dont l’action devait tendre: 1) à chasser les Français du territoire; 2) à former un gouvernement républicain Anamite sincèremente démocrate.

 Je me rends personellement responsable de tous les événements politiques survenus dans mon pays depuis cette date et organisés par moi. Je suis le seul et vrai coupable, ma mort donc suffire. Je demands grâce pour les autres.

 Ceci dit, je tiens à vous déclarer que si les Français veulent désormais occuper l’indochine en toute tranquilité, sans être gênés par aucun mouvement révolutionnaire, ils doivent: 1) abandonner toute méthode brutale inhumaine; 2) se comporter en amis des Anamites; non plus en maitres cruels; 3) s’ efforcer d’ atténuer les misères morales et matérielles en restituant aux Anamites les droits élémentaires de l’ individu: liberté de voyage, liberté d’instruction, liberté d’ association, liberté de la presse; 4) ne plus favoriser la concussion des fonctionnaires ni leurs mauvaises moeurs; 5) donner l’ instruction au peuples, développer le commerce et l’industrie indigènes.

 Veuillez agréer, Messieurs les députés, l’expression de mes sentiments de respect. (8)

         Votre ennemi, le revolutionaire

          THAI HOC” 

 LẠI MƯU ĐÁNH PHÁ NGỤC THẤT HỎA LÒ VÀ PHÁP TRƯỜNG YÊN BÁI 

Ngục Thất Hỏa Lò thời thực dân Pháp

Từ khi Nguyễn Thái Học và các yếu nhân của Đảng bị bắt, thì Lê Hữu Cảnh lên nắm quyền của Đảng. Cảnh đã bỏ qua hết những mối bất hòa lúc trước và không tỏ ra nghi ngờ đối với các đồng chí cũ của Nguyễn Thái Học. Hơn nữa, Lê Hữu Cảnh vẫn thường liên lạc với Nguyễn Thái Học trong ngục thất và nhận lấy những lời khuyên bảo do Nguyễn Thị Giang làm liên lạc giữa hai người. Không những thế, cô Giang còn làm cố vấn cho Đảng và được mọi người nghe theo cho đến ngày cô chết.

 Mối ưu tư đầu tiên của cô là phải thi hành gấp việc ám sát kẻ phản đảng là Phạm Thành Dương.

Để lập lại trước mắt quần chúng uy tín của Đảng bị lung lay mạnh bởi những thất bại mới đây, và nhiều vụ bắt bớ mới xảy ra, chính Nguyễn Thị Giang quyết định gây mưu hại khủng bố chẳng những đối với những kẻ âm mưu phản đảng, mà còn đối cả với những viên chức cao cấp người Âu Châu và bọn quan lại tận tụy với Bảo Hộ. Người bị hại đầu tiên phải là Toàn quyền Pasquier, bản án xử tử được viết bằng thứ mực kín, mà mật thám đã tóm được trong các giấy tờ của Lê Hữu Cảnh, lúc Cảnh bị bắt.  Bản án ấy do chính Nguyễn Thị Giang đọc cho Lê Hữu Cảnh viết.

Một bản án xử tử khác cũng được công bố, bản án của Vi Văn Định, Tổng đốc tỉnh Thái Bình, người đã góp phần đắc lực vào công cuộc đàn áp những mưu toan của cách mạng ở tất cả những nhiệm sở ông phục vụ. Người ám sát được chỉ định thi hành là Tô Phúc Dịch bị bắt ngày 26 tháng 7 năm 1930, mang trong mình một khẩu súng lục đã nạp đạn và một bức thư ghi bản án tử hình.

 Và chính việc tuyên truyền tổ chức Binh đoàn Yên Bái đã làm nên cuộc khởi nghĩa đêm mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2, cũng là Nguyễn Thị Giang. Hơn thế nữa, Nguyễn Thị Giang còn chủ mưu đánh phá ngục thất Hỏa Lò và pháp trường Yên Bái để cứu Nguyễn Thái Học và các đồng chí của cô.

 Đảng vẫn tiếp tục công tác chế bom, sau nhiều lần thử không thỏa mãn những vũ khí nổ mạnh; người ta bắt đầu chế bom bằng kim khí có dạng hình trụ, phát hỏa bằng điện. Nhiều quả bom loại mới này bị bắt được ở Hà Nội ngày 27 tháng 8 năm 1930. (9)

 TÊN TUẦN PHU BẮT NGUYỄN THÁI HỌC BỊ XỬ TỬ

Cách đúng đó 10 năm sau, ngày 23 tháng 9 năm 1940, quân đội Nhật Bản từ Trung Hoa tiến vào Lạng Sơn. Lợi dụng thời cơ thuận tiện các lãnh tụ “Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội” (VNPQĐMH) chỉ huy Phục Quốc Quân (PQQ) vào chiếm đóng thành Lạng Sơn. Được toàn thể đồng bào tỉnh Lạng Sơn nhiệt liệt hưởng ứng và ủng hộ.  Sau ngày quân đội Pháp chiếm lại thành Lạng Sơn, PQQ chống cự không nổi phải rút lui ra ngoài bưng biền hoạt động du kích chiến.

Tháng 11 năm 1940, Độc lập sư VNPQĐMH do Hoàng Lương chỉ huy hành quân, bộ tham mưu đóng tại Bản Cam (thuộc tỉnh Lạng Sơn) phái Nguyễn Đình Hải xuất quân một đại đội đi tuần tiễu.

Một trung đội lính Việt trong hàng ngũ Pháp quân do Trung úy (Lieutenant) Hà Văn Ký chỉ huy đã bị lọt vào ổ phục kích của PQQ tại Bản Lim. Hà Văn Ký bị giết tại chỗ (10), còn lính bị bắt giải về bộ tham mưu tại Bản Cam.  Ngoài số binh sĩ, còn có 8 người dân quê mà Hà Văn Ký bắt đi làm hướng đạo cũng bị bắt về bản doanh hành quân Bản Cam.

 Trong số 8 người dân quê hướng đạo cho Hà Văn Ký được thẩm vấn, có một người khai tên là Lương Văn Quán và tự cung khai chính y là một người trong số tuần phu canh gác điếm Cổ Vịt của thực dân Clébert, đã cùng đồng bọn bắt Nguyễn Thái Học cùng Sư Trạch ngày 20 tháng 2 năm 1930.

 Hoàng Lương cho là một việc tối thiêng liêng báo ứng của luật nhân quả đạo Phật, bởi chính Lương Văn Quán đã tự cung khai chứ không một ai biết chuyện quá khứ 10 năm.

 Hoàng Lương ra lệnh xử tử Lương Văn Quán lập tức bằng nhiều mũi lưỡi lê. (11) 

 THỰC DÂN TREO GIẢI THƯỞNG 5.000 ĐỒNG BẠC CHO AI BẮT ĐƯỢC KÝ CON 

 

Anh hùng dân tộc Ký Con (đường Ký Con)

Sau vụ ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2, Ký Con bị sở Mật thám Bắc Kỳ truy nã rất gắt gao. Chính quyền Thực dân cho in hình Ký Con và rải hàng vạn cáo thị cho ai bắt hay giết được Ký Con, sẽ được thưởng một số bạc là 5.000 đồng. 

 Đứng trước tình thế nghiêm trọng ấy, Ký Con rời Hà Nội xuống ở nhà một đồng chí ở làng Dư Hàng, ngoại ô thành phố Hải Phòng. Ở Hải Phòng ít lâu, cảm thấy khó bề yên ổn. Vào trung tuần tháng 6, Ký Con (12) trở về Nam Định ở tạm một đêm tại nhà một đồng chí ở phố Năng Tĩnh. Sớm hôm sau, trong khi Ký Con sửa soạn ra đi, thì mật thám ập vào bắt được đưa về Hà Nội. Sở mật thám Nam Định tuyệt nhiên không hề hay biết gì cả! Nguyên do vụ này, theo Phán Tảo, một nhân viên trong sở mật thám Nam Định đã thuật lại với tác giả rằng: Là có mấy đảng viên “Đông Dương Cộng Sản Đảng” ở Nam Định và Thái Bình biết tin Ký Con hiện có mặt ở Nam Định, chúng liền lên thẳng Hà Nội mật báo với lão quan thầy của chúng là Louis Marty, Tổng giám đốc Nha Liêm Phóng Đông Dương. Louis Marty liền ra lệnh cho Arnoux đem mật thám Hà Nội xuống Nam Định vây bắt Ký Con, khiến cho sở mật thám Nam Định bị Arnoux khiển trách rất nặng nề.  

 Nhưng nuốt 5.000 đồng bạc thưởng đâu có trôi! Để trả đũa, sở mật thám Nam Định liền ra lệnh bắt ngay mấy đảng viên ĐDCSĐ ấy.

 Tại sở mật thám Hà Nội, ký giả Louis Roubaud đã gặp Ký Con, Louis Roubaud đã tường thuật lại cuộc gặp gỡ ấy như sau: 

 “Tôi gặp Ký Con ở phòng ông Arnoux, giám đốc mật thám Bắc Việt. Ông Arnoux là người điều khiển ngành công an Pháp, thì Ký Con mấy hôm trước đây còn là công an của Đảng. Anh là trưởng ban ám sát. Khi tòa án cách mạng của Đảng tuyên án tử hình ai, họ thường chuyển việc này sang cho Ký Con sao lại bản tuyên án để hành hình. Anh ra chỉ thị cho những nhân viên làm việc, khi đã xong xuôi, anh cho in bản thông cáo để loan báo cho dân chúng An Nam và Pháp biết, những sự việc vẫn trôi chảy đều đều. 

Hôm nay anh ở trong phòng ông giám đốc công an Pháp, tôi được thân mật nói chuyện với anh, đôi khi rất buồn cười, nếu tôi căn cứ vào tiếng cười của Ký Con.

Anh ta là một người bé nhỏ hơn tất cả mọi người, anh ta rất gầy, anh ta mới 22 tuổi, có khuôn mặt như con sóc, mắt sáng lấp lánh. Anh vừa bị bắt mới cách đây vài hôm thôi. Đầu anh được treo giải thưởng từ lâu nay. Cuộc thẩm vấn không kéo dài, vì anh đã thú nhận hết.

 – Thủ phạm sát nhân trong sở thú chính là anh!

 – Đánh cướp xe trên đường Sơn Tây chính là anh! Cái gì không do chính tay anh hành động, anh cũng sửa soạn và ra lệnh. Mỗi tội ác của anh giá trị ngang với xử tử hình mà đã có 20 tội như vậy. Hội Đồng Đề Hình kết án tử hình mà đến lượt anh phải nhận.

Câu chuyện đối thoại đến khúc quan trọng, ông Arnoux phái nói tới chủ thuyết Đảng và mục đích cuộc cách mạng. Ký Con trả lời ung dung, không cần lựa lời, chấm câu, để giải thích hay thuyết phục.

Theo lời đề nghị của tôi, ông Arnoux hướng về quá vãng tù nhân, đến thuở thiếu thời của anh.

Ký Con sinh trưởng ở Hàng Sơn trong một phố tuyệt đẹp ở Hà Nội, cha anh trông coi tiệm thợ bạc. Như thế không có nghĩa là gia đình anh giàu có. Vốn liếng vỏn vẹn có, là gồm những dụng cụ để làm nghề một người thợ vàng, bạc.

Đến lượt tôi hỏi chuyện anh:

 – Nếu anh thấy rất ít lòng tin thành công, thì sao anh cứ dằng dai mãi?

 Anh trả lời tôi:

 – Người ta phải khởi sự, rồi người khác tiếp tục. Chúng tôi không thành công, rồi kết quả sẽ đến sau này.

 – Để làm gì?

 – Để đuổi người Pháp ra khỏi xứ An Nam.

 – Có phải rằng ám sát đồng bào tôi, anh có thể đi tới đích?

 – Tôi chỉ trừng phạt bọn bội phản. Nếu tôi giết kẻ nào là bởi công ích. Ông không thể làm cuộc cách mạng mà không có sự giết người.

 – Và anh cướp bóc hành khách (chuyến xe đò Mỹ Lâm ngày 21.1.1930).

 – Cách mạng cần tiền. Trong xe có nhiều lái buôn Trung Hoa rất Giàu có, đi chợ để đầu cơ thực phẩm: gạo.  Tôi bảo họ: “Tôi có nhiệm vụ chiếm của cải kẻ Giàu có quá mức, để phân phát cho kẻ nghèo.”

 – Anh là Cộng Sản?

 – Tôi chỉ là một người Cộng Hòa như ông, tôi cầu chúc cho xứ sở tôi được như là xứ sở ông đã có: một chính phủ dân chủ, bầu cử phổ thông, tự do báo chí, thừa nhận quyền hành làm công dân để khởi sự đầu tiên là độc lập.

 Anh còn tuyên bố:

 – Nếu người Pháp yêu chúng tôi, họ sẽ thấy chúng tôi khổ sở biết chừng nào.

Và anh nói thêm:

 – Những người khổ sở nhất là những người già, bởi họ không trông thấy. Chúng tôi sống không ánh sáng, như người già cả. Chúng tôi là dân tộc sống trong tăm tối.

 Ông Arnoux là một kẻ địch nguy hiểm nhất của họ, theo dõi họ không thương xót: nhưng ông không dám khinh miệt họ bao giờ!” 

 CƠ QUAN CẢI TỔ ĐẢNG BỊ KHÁM PHÁ 

Mặc dầu gặp hoàn cảnh hết sức khó khăn, Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Phạm Văn Hể, và ít ngày sau thêm Nghiêm Toản, cùng nhau đứng lên làm nhiệm vụ liên lạc với các đồng chí còn ở trong vòng bí mật để triệu tập một hội nghị bầu Trung ương Chấp hành VNQDĐ cải tổ.

Để có tài chính thực hiện công tác cải tổ Đảng, ngày 30 tháng 4 năm 1930, thừa khi Nguyễn Văn Bình, Tham tá Sở Công Chính ôm cặp bạc từ Ngân khố Trung ương Hà Nội trở về sở để phát lương cho nhân viên. Ngồi trên xe kéo đi được ít bước đường, Nguyễn Xuân Huân đi xe đạp tiến tới giật cặp bạc của Nguyễn Văn Bình, trong có số bạc 11.000 đồng (13) trao cho Nguyễn Văn Quất. Bình kêu cứu và lăng mạ thậm tệ. Sợ bị lộ chuyện, Nguyễn Xuân Huân liền rút súng lục bắn chết Nguyễn Văn Bình cho phi tang.

Sở mật thám phái thám tử đến khám xét những người tình nghi là đảng viên VNQDĐ. Trong số có Giáo sư Lê Văn Giáp, họ Lê bị bắt, nhưng thủ phạm xét ra không phải là họ Lê, vì ông này không biết đi xe đạp. Mãi đến ngày 10 tháng 7 năm 1930, sở mật thám giăng lưới bắt được Lê Hữu Cảnh ẩn náu trong một ngôi nhà ở Hải Phòng với người phụ tá là Nguyễn Xuân Huân và Lê Thị Thành. Cảnh và Huân đều có mang súng lục và đạn. Mật thám còn khám phá được ở trong căn nhà này ngoài bản án tử hình chống Pasquier, còn bắt được tất cả dụng cụ chế bom cũng như các công thức làm chất nổ.

Trước sự tra tấn dã man của Pujol (14), Nguyễn Xuân Huân và Lê Hữu Cảnh khai nhận hết. Sau khi đã ký vào tờ cung khai, thừa khi Pujol không lưu ý, Lê Hữu Cảnh (15) cầm bình mực bằng thủy tinh trên bàn giấy liệng thật mạnh vào mặt Pujol, rồi lao mình từ tầng lầu 1 xuống sân trong sở Mật thám tự tử, nhưng Lê Hữu Cảnh đã không được toại nguyện. Lê Thị Thành bị cùm hai chân và khóa chặt hai tay trong sà-lim, mật thám cưỡi xe đạp đi trên bụng chị Lê để bắt khai cung. Chị Lê lăng mạ bọn thám tử thậm tệ và nhất định không chịu cung khai cho một ai!

Đến ngày 15 tháng 8 năm ấy, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Phạm Văn Hể đều bị bắt. Và cách ít ngày sau, Nghiêm Toản cũng bị bắt nốt. 

Tiếp đến ngày mồng 7 tháng 9 năm 1930, sở mật thám lại huy động một số đông đảo nhân viên đến vây suốt đêm, đợi trời sáng rõ mới ập vào khám nhà Hoàng Đình Gị (Cơ quan bảo vệ tổ chức VNQDĐ cải tổ) ở Thanh Giám, Hà Nội.

Hai nhân viên sở mật thám bị thương bằng súng lục. Hoàng Đình Gị, Hoàng Đình Vỹ cùng 3 đồng chí tìm cách trốn chạy, bắn không ngừng lại những người rượt bắt. Cuối cùng cả 5 người trốn chạy đều bị bắt: Hoàng Đình Gị, Hoàng Đình Vỹ, Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Vân và Trần Xuân Độ. Và sau đó ít ngày, Hoàng Đình Gị, Hoàng Đình Vỹ vì bị thương nặng nên đã từ trần.

Đỗ Thị Tâm bị đưa lên thẩm vấn đầu tiên. Pujol ra lệnh lột trần, tra tấn bằng điện, nước và gân bò cực kỳ dã man. Chị Tâm nhất định không chịu cung khai một lời, còn lăng mạ! Pujol ra lệnh tạm giam vào sà-lim số 21. Trước khi đưa vào sà-lim, một tên thám tử người Pháp to lớn, còn lấy hai tay nâng bồng chị Tâm ở giữa sân trong sở mật thám, quay nhiều vòng tròn tít như chong chóng.

Chân bị cùm, tay bị xích ở sà-lim, Đỗ Thị Tâm (16) lấy mảnh yếm lụa nhét vào trong cuống họng kết liễu đời mình ngay đêm hôm ấy (mồng 7.9.1930).

Nguyễn Thị Vân khai gia nhập VNQDĐ là để tranh đấu quyền độc lập cho Tổ quốc. Trước ngày Đảng khởi nghĩa, Thị Vân được trao phó công tác may cờ cùng quân phục cho cách mạng quân; nay thì học bắn súng chế bom để giết những kẻ nào phản đảng và những kẻ xâm lăng. Được gia nhập Đảng là do chị Đỗ Thị Tâm giới thiệu. Chi bộ có 5 người, thì 2 người bị bắn chết, còn lại 3 người bị bắt đây.

 Ra trước Hội Đồng Đề Hình, xét vì chưa đến tuổi thành niên, Nguyễn Thị Vân bị xử giam vào nhà Trừng giới 10 năm. 

 Đến Trần Xuân Độ (17) nguyên là đoàn viên của VNQDĐ thuộc Chi đoàn Hải Phòng. Sang lao động tại Ai Lao đã hơn một năm. Khi được tin Đảng sắp khởi nghĩa, anh tìm đường xuyên sơn trở về nước, được xung công tác tại cơ quan mật vụ này.

 Trần Xuân Độ được đưa ra xét xử trước Hội Đồng Đề Hình, bị kết án lưu đày ra Côn Đảo.

————————————-

Ghi chú:

(1) Theo tài liệu của tạp chí “Phụ Nữ Tân Văn” Sài Gòn.

(2) Mỗi khi bắt được một đảng viên VNQDĐ, Vi Văn Định liền ra lệnh đốt nhà, rồi bắt người về tra tấn rất dã man.

(3) Xem bài văn tế của cụ Phan Sào Nam ở Thiên Phụ.

(4) Dịch ra Việt ngữ như sau:

“Bọn giặc giết ông huyện Vĩnh Bảo rồi trốn về làng Cổ Am, thì ngày hôm qua bản chức đã phái phi cơ liệng bom xuống làng Cổ Am. Vậy bản chức thông tư cho các ngài biết. Các ngài phải thông báo việc ấy cho sâu rộng, để cho các dân xã đều hay. Nếu làng nào còn chứa chấp bọn khởi nghĩa, thì cũng sẽ bị ném bom xuống ngay như làng Cổ Am, chứ không tha thứ. (Theo tài liệu trong cuốn “Việt Nam Bi Thảm” của Louis Roubaud, trang 143-144).

(5) Trần Quang Diệu sinh năm 1888 là con cụ Tú Tài Trần Văn Dư ở làng Cổ Am, tổng Đông An, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.

Trần Quang Diệu dáng người tầm thước, da trắng mắt sáng, tính tình hòa nhã, hào hiệp, nhưng rất cương quyết. Hán văn thi đậu Khóa sinh, Pháp văn đậu Tiểu học Pháp-Việt. Sau khi thi đậu Thừa phái, nhưng không chịu đi nhậm chức, làm nghề dạy học tư trong vùng.

Trần Quang Diệu còn có một người em trai là Trần Văn Quanh, giáo học, cũng là đảng viên VNQDĐ bị HĐĐH kết án khổ sai chung thân đày ra Côn Đảo.

(6) Cổ Am là một xã chia làm nhiều thôn. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh quán ở thôn Trang Am.

Cách đây 4 thế kỷ, cụ Trạng đã làm bài thơ (Sấm) xin chép nguyên văn dưới đây, mà người đời sau cho là ứng vào việc khởi nghĩa của VNQDĐ năm 1930 ở Kiến An, Hưng Hóa, Lâm Thao, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Yên Bái, và chỉ vào việc Hoàng Gia Mô, Tri huyện Vĩnh Bảo bị cách mạng quân giết chết.  

 “Kìa kìa gió thổi lá rung cây,

 Rung Bắc rung Nam rung tới Tây.

 Tan tác Kiến kiều an đất nước,

 Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

 Lâm giang nổi sóng mù theo cát,

 Hưng địa tràn dâng hóa nước dầy.

 Một ngựa một yên ai sùng bái,

 Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.”  

(7) Đoàn Kiểm Điểm là con một viên thừa phái, nguyên quán tại tỉnh Lạng Sơn. Tính cương trực, thông Hán văn và Pháp văn. Lạng Sơn, nơi tiếp giáp lãnh thổ Trung Quốc, Đoàn Kiểm Điểm xuất ngoại tương đối một cách dễ dàng. Năm 1930, sau khi trở về nước được ít lâu bị thực dân bắt đày ra Côn Đảo. Cuối tháng 9 năm 1940, Đoàn Kiểm Điểm tham gia phong trào “Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội” đánh chiếm thành Lạng Sơn, bị Pháp bắt giết cùng với lãnh tụ Trần Trung Lập.

(8) Bức thư trên đươc dịch ra Việt ngữ như sau:

 “Thưa các ông Nghị,

Theo công bằng: quyền của mọi công dân là muốn giải phóng dân tộc. Theo nhân bản luận, bổn phận mọi cá nhân là cứu trợ đồng bào cực khổ. Tôi đã trông thấy gì? Đã 60 năm, Tổ Quốc tôi bị đặt vào vòng nô lệ các ông, giòng giống tôi bị đe dọa bởi cuộc sinh tồn. Tôi có quyền, vậy thế, và bổn phận bảo vệ xứ sở và đồng bào tôi.

 Trước hết, ý nghĩ của tôi là muốn đi tới mục đích hợp tác với các ông, những thế cờ ấy nhắc lại, dẫn cho tôi đến sự thừa biết rằng những người Pháp không muốn thành thật trong công cuộc hợp tác ấy, và như thế tôi không thể phục vụ đồng bào tôi dài lâu, nếu các ông vẫn làm chủ trên xứ sở này. Nên năm 1927, tôi lập một đảng phái quốc gia An Nam và hành động trải rộng về: 1) Đuổi Pháp ra khỏi lãnh thổ; 2) Thành lập một chính phủ Cộng Hòa An Nam trên căn bản thành thật dân chủ.

 Tôi sẽ chịu hết trách nhiệm về cá nhân tôi qua các biến động chính trị đột biến trên xứ sở này, từ ngày tôi thành lập Đảng. Chỉ có tôi và chính tôi là thủ phạm, sự hành hình riêng tôi là đủ, tôi xin ân xá cho những người khác.

 Điều nói này đây, tôi nói với các ông rằng, những người Pháp muốn chiếm Đông Dương yên ổn, thì từ đây trở đi, không muốn bị một phong trào cách mạng nào quấy rối các ông phải:

 – Bỏ tất cả phương pháp dã man vô nhân đạo.

 – Cư xử với người An Nam như bạn, chứ không phải là chủ ác độc.

 – Cố gắng giảm bớt sự đau khổ tinh thần cũng như vật chất, xây dựng cho người An Nam quyền sơ đẳng cá nhân.

– Không thể làm ngơ trước sự hối lộ của viên chức và tính xấu của họ.

– Cho dân tộc ấy học hỏi phát triển thương mãi và kỹ nghệ bản xứ.

 Xin các ông Nghị nhận nơi đây, sự biểu tỏ những tình cảm kính mến của tôi. 

 Địch thủ của các ông,

Nhà cách mạng THÁI HỌC”

(9) Mục này, tác giả trích dịch theo tài liệu của Louis Marty, Giám đốc Mật thám Đông Dương trong cuốn “Contribution à l’histoire des mouvements politiques de l’Indochine Française.”

(10) Sau khi Pháp tái chiếm Lạng Sơn, Pháp đã lấy tên Hà Văn Ký đặt cho một tên phố ở thành Hà Nội.

(11) Theo lời tường thuật của ông Nguyễn Văn Phi, chiến sĩ VNPQĐMH.

(12) Căn cứ vào hồ sơ của Ký Con tại sở Mật thám thì họ, tên anh là Đoàn Trần Nghiệp, sinh năm 1908 tại phố Hàng Sơn (Rue de la Laque), Hà Nội, là con ông Đoàn Văn Ba và bà Đinh Thị Thuận, nguyên quán tại làng Khúc Thủy, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Thân phụ anh hành nghề kim hoàn tại số 36 phố Hàng Bạc, Hà Nội.

 Tại làng Khúc Thủy, chúng tôi không thấy có họ Đoàn, mà chỉ thấy có 2 họ Đào, 2 họ Đặng, 1 họ Trần và 1 họ Nguyễn. Nên chúng tôi kết luận là Ký Con họ Đào.

 Đến năm 1967, chúng tôi mới có dịp gặp lại Giáo sư Nguyễn Văn Mùi, và có đề tặng Giáo sư cuốn “Lịch sử VNQDĐ”. Sau khi đọc hết, Giáo sư Nguyễn Văn Mùi cho biết: “Trần Nghiệp không phải là họ Đoàn, mà cũng không phải là họ Đào! Nguyên vào năm 1949, khi ấy Giáo sư Mùi làm Hội viên Thành phố Hà Nội, chính thân phụ Trần Nghiệp thân đến nhà Giáo sư Mùi 2 lần, yêu cầu Giáo sư đề nghị với Hội đồng Thành phố cho sửa lại Biển phố ở Khu Nhà Diêm là ĐẶNG TRẦN NGHIỆP cho đúng, chứ không phải là Đoàn Trần Nghiệp. Giáo sư Mùi trả lời là không có quyền sửa lại lịch sử.”

 Theo ý Tác giả, có lẽ Ký Con đã đánh lạc hướng cho Chính quyền Thực dân khỏi làm phiền lụy đến những người trong họ hàng, đến những người thân yêu anh chăng? Vậy Tác giả xin đính chính là ĐẶNG TRẦN NGHIỆP tức là Ký Con cho đúng.

 Ký Con dáng người nhỏ bé, nước da trắng mịn, khuôn mặt trái soan, cặp mắt sáng nhưng có vẻ mơ màng, đôi môi đỏ thắm như son, miệng lúc nào trông cũng như mỉm cười, nhưng điềm đạm ít nói.

 Vì nhà nghèo, Ký Con phải thôi học sớm. Năm 18 tuổi phải vào làm nghề bán hàng cho hãng Gô Đa, Hà Nội.  Đầu năm 1928, Ký Con được giới thiệu vào VNQDĐ lấy bí danh là Doãn.

 Đến khi Khách Sạn Việt Nam được thành lập, anh Doãn được cử vào trông coi việc mua bán và xuất nhập kho. Vì anh Doãn là người nhỏ tuổi hơn hết, nên các nhân viên trong khách sạn gọi đùa anh Doãn là “Ký Con”. Cái tên Ký Con xuất hiện từ đó.

 Đến tháng 2 năm 1929, Khách Sạn Việt Nam bị thực dân khám xét và ra lệnh đóng cửa, vai trò của Ký Con khi ấy không mấy quan trọng, nên Hội Đồng Đề Hình không mấy lưu ý, nên được trả tự do. Ký Con bắt đầu hoạt động sát cánh Nguyễn Thái Học. Xét thấy Ký Con là người gan dạ và lại kín đáo, Nguyễn Thái Học đã cử vào ban ám sát, Ký Con lấy bí danh là “SĨ HIỆP”. Từ đấy Ký Con mới có cơ hội được thi thố hết tài năng của mình để phụng sự Đảng.

(13) Số tiền 11.000 đồng theo lời khai của Lê Hữu Cảnh, trích 5.000 đồng phái một cán bộ phụ nữ đưa sang cho Nguyễn Thế Nghiệp ở Vân Nam, số tiền còn lại dùng để xây cất tại Hải Phòng và Hà Nội nhà thương vụ, hầu có lợi phải bổ xung quỹ của Đảng.

(14) Pujol là Commissaire de la police spéciale.

(15) Lê Hữu Cảnh sinh năm 1895 tại xã Thịnh Quang, tổng An Hạ, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, trong một gia đình Công Giáo rất ngoan đạo. Được theo học tại trường Thầy Dòng, Hà Nội. Là Phó quản lính mộ đi Pháp. Khi trở về nước, anh làm việc tại công xưởng Hỏa xa. Song thân anh làm nghề thương mãi về đồ gốm tại số nhà 51 phố Hàng Mắm, Hà Nội. Lê Hữu Cảnh rất thông minh và gan dạ vô cùng.

(16) Đỗ Thị Tâm chính tên là Phạm Thị Hào là con gái ông Ba Đỗ và là cháu cụ Cử Chí. Quán làng Thịnh Hào, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông.

Phạm Thị Hào là ý trung nhân, là đồng chí với Hoàng Đình Gị, chết bởi nhiều vết thương trong lúc bảo vệ tự do chống lại bọn thám tử, mà anh đã gây nhiều thương tích bằng những phát súng lục. Theo gương Nguyễn Thị Giang, ngay đêm bị bắt, Phạm Thị Hào đã tự tử theo ý trung nhân.

(17) Độ là bí danh khi anh gia nhập Đảng hồi tháng 10.1928, tên thực của anh là Phạm Xuân Đại, nguyên làm thợ sắt tại hãng Cacric Hải Phòng. Sau sang Ai Lao làm ở hãng nhánh Cacric.

Ngày 31.1.1930, chuyến máy bay thường lệ của hàng không Pháp đáp xuống Vạn Tượng, chở theo một số máy móc của hãng. Anh cùng một số thợ khác ra trường bay tháo gỡ đưa về sở. Những người ở Việt Nam sang kể chuyện với bà con của họ là VNQDĐ sắp khởi nghĩa. Chính quyền Pháp đã bắt được nhiều súng đạn cùng tài liệu về chủ trương đó. Sớm chiều cách mạng sẽ bùng nổ, tình hình rối ren lắm.

Nghe được tin ấy anh mừng lắm, cơ hội phụng sự dân tộc một cách thiết thực đã đến. Anh chuẩn bị lương khô vượt biên giới, 15 ngày đêm anh lận đận trong rừng sâu mới về tới địa phận tỉnh Hòa Bình. Bắt liên lạc được người quen, được biết cuộc khởi nghĩa của Đảng đã thất bại. Nhờ có phương tiện và giấy tờ hợp lệ về được Hà Nội là do một lão đồng chí là ông Quách Vỵ, Tuần phủ tỉnh Hòa Bình thời ấy cấp cho.

Về Hà Nội, anh xin gia nhập ám sát đoàn, phụ trách cơ quan Hậu giám. Khi bị bắt về sở mật thám, chúng hỏi tên tuổi và căn cước, anh đều khai là không có, nhưng anh nhận là đảng viên VNQDĐ. Chúng hành hạ, đánh đập anh hết ngày này qua ngày khác, lâu rồi chúng đâm ngán. Tập hồ sơ của anh không có tên. Mãi sau, nhân khi anh đi tắm, khi trở về phòng giam, vô tình đánh rớt cục xà bông, một người chắc là đồng chí của anh, từ trong lỗ cửa sà-lim trông thấy, vô tình kêu:

– Kìa anh Độ! Anh đánh rớt cục xà bông kia kìa!

Do đó, có kẻ nghe thấy, liền lên báo cho mật thám biết để tâng công. Từ đấy trong tập hồ sơ của anh, mật thám mới ghi tên anh là “Độ”.

Anh em những người cùng bị giam chung với anh, đều mệnh danh anh là “GAN LÌ TƯỚNG QUÂN”.

[Bấm Vào Đọc Bài Trước]

[Bấm vào đây đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (9)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương IX: “NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ”

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG IX: NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ

NGÔ HẢI HOẰNG CÙNG 3 ĐỒNG CHÍ LÊN MÁY CHÉM THỰC DÂN 

Để kịp làm êm dịu tình hình và đẹp lòng giới tư bản cùng hàng ngũ binh sĩ thực dân. Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Hội Đồng Đề Hình họp phiên xử công khai lần đầu tiên tại trại binh tỉnh Yên Bái do Poulet Osier ngồi ghế chánh án, xử các chiến sĩ VNQDĐ khởi nghĩa Yên Bái ngày mồng 10 vừa qua. Có 15 bị cáo. Người bị gọi ra thẩm vấn đầu tiên là Ngô Hải Hoằng.

 – Sao anh lại đánh Yên Bái? Poulet Osier hỏi.

 – Không phải tôi đánh mà là Trung ương Đảng bộ hạ lệnh cho tôi đánh! Các ông còn lạ gì kỷ luật của Đảng tôi! Nếu không phục tòng mệnh lệnh, tất nhiên Đảng xử tử. Đánh với các ông nếu có thua đi nữa, cũng đến xử tử là cùng!

 – Anh thật là người vô ơn, quan ba Jourdain là vị quan thầy hết sức tử tế với anh, vậy mà đêm ấy anh đã bắn chết ông ta đầu tiên.

 – Đại úy Jourdain là người tử tế với tôi thật, nhưng đó là tình riêng. Còn tôi giết ông ta là bổn phận đối với Đảng tôi. Người Việt Nam chúng tôi bao giờ cũng đặt nghĩa công lên trên tình riêng.

 – Anh thật là hạng người tàn ác. Một mình anh đêm ấy đã giết chết 6 người Pháp.

 – Tôi làm gì giết được nhiều như thế! Anh em tôi giết nữa chứ! Thế nhưng cả Đảng chúng tôi chỉ là một người! Anh em tôi giết, tôi xin vui lòng chịu hoàn toàn trách nhiệm.

 Hội Đồng Đề Hình tuyên án:

 – 1 người bị khổ sai chung thân

 – 1 người bị 20 năm khổ sai

 – 13 người bị tử hình

 Bản án gửi qua Pháp, Tổng Thống Doumergue giảm 9 án tử hình xuống khổ sai chung thân.  Còn lại 4 chiến sĩ:

 ĐẶNG VĂN LƯƠNG, nông dân, quán làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, thuộc tỉnh Phú Thọ.

 ĐẶNG VĂN TIỆP, nông dân, quán làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, thuộc tỉnh Phủ Thọ.

 NGUYỄN THANH THUYẾT, hạ sĩ quan thuộc Binh đoàn Yên Bái.

 NGÔ HẢI HOẰNG, hạ sĩ quan thuộc Binh đoàn Yên Bái.

 Đã lần lượt lên máy chém thực dân tại Yên Bái vào sớm ngày thứ Năm, mồng 8 tháng 3 năm 1930 (tức ngày mồng 9 tháng 2 năm Canh Ngọ). 

 NGUYỄN THÁI HỌC CÙNG 12 ĐỒNG CHÍ THỨ TỰ BƯỚC LÊN MÁY CHÉM

Máy chém các anh hùng dân tộc VNQDĐ

Sáng ngày 23 tháng 3, hai đội lính Khố Xanh võ trang dưới quyền chỉ huy của giám binh Cases, phụ tá có rất đông thám tử do thanh tra mật thám là Reiner phụ trách áp giải 83 chiến sĩ VNQDĐ từ ngục thất tỉnh Yên Bái ra trước Hội Đồng Đề Hình, nhóm phiên xử công khai tại trại binh tỉnh Yên Bái. Poulet Osier ngồi ghế chánh án. Bởi phòng xử quá hẹp nên chỉ có mấy chục người vừa Pháp vừa Việt là những người có thần thế mới được vào xem xử mà thôi.

 Để chứng tỏ công bằng, một sự công bằng chỉ huy, chính quyền thực dân cử 4 luật sư là Mandrette, Bona, Mayet và Demistre ra biện hộ cho các bị cáo.

 Bắt đầu buổi họp, Hội Đồng Đề Hình tuyên bố tha bổng cho các bị cáo: Vũ Hữu Hóa, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Văn Ninh, Lê Văn Châu, còn lại 83 bị cáo chia ra như sau:

 – 1 phụ nữ (Nguyễn Thị Bắc),

 – 37 thường dân,

 – 45 binh sĩ.

 Người bị gọi ra thẩm vấn đầu tiên là Nguyễn Thái Học. Với thái độ chững chạc, bình tĩnh, Nguyễn Thái Học nhận hết trách nhiệm, và toan phân trần về lý do chính trị của cuộc khởi nghĩa, liền bị Chủ tịch Hội đồng chặn lại không cho nói. Nguyễn Thái Học nói to:

 – Nếu vậy thì cái tòa án này là nơi đem cường quyền mà đàn áp công lý, ta còn nói nữa mà làm chi! Và ta cũng không cần ai biện hộ cả!

 Đến Phó Đức Chính, Chính tỏ thái độ cương quyết, tự nhận là ủy viên tuyên truyền cổ động ở các tỉnh, thảo truyền đơn gởi cho các binh sĩ khuyên họ làm cách mạng, thảo chương trình kế hoạch Tổng Khởi Nghĩa…

Nguyễn Thị Bắc phản đối kịch liệt, đòi thả cô ra ngay và hô to: “Các người về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Arc đi thôi!”

Các chiến sĩ khác đều dũng cảm công nhận là có gia nhập VNQDĐ với mục đích là đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam giành lại quyền độc lập cho Tổ Quốc.

Sau rốt đến lượt các luật sư biện hộ với một luận điệu xin Hội Đồng xét xử cho công bằng. Chỉ nên làm tội những người chủ mưu xướng xuất mà thôi, và nên dung thứ cho những người a tòng.

 Đến hồi 10 giờ sáng ngày hôm sau, Hội Đồng Đề Hình tuyên án:

 – 39 người bị án tử hình,

 – 30 người bị án khổ sai chung thân,

 – 9 người bị án 20 năm khổ sai,

 – 5 người bị án tội đày trong số có cô Nguyễn Thị Bắc 5 năm tù ở.

Để mong gỡ án nhẹ phần nào cho các đồng chí, Nguyễn Thái Học đã ký chống bản án lên Hội Đồng Bảo Hộ để cho các đồng chí noi theo. Duy Phó Đức Chính không ký chống án. Poulet Osier hỏi tại sao? Họ Phó đáp:

 – “Đại sự đã không thành! Chết là vinh! Còn chống án làm chi vô ích!”

Sau khi Hội Đồng Đề Hình xử xong, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của ông bị đưa về giam tại ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội.

Nhận thấy Hội Đồng Đề Hình kết án tử hình tuy khá nhiều, nhưng trước khi thi hành bản án, còn phải gửi qua Ba Lê (Paris) để Tổng Thống quyết định. Sự quyết định ấy là ân giảm, làm cho giới thực dân ở Việt Nam không hài lòng. Các báo Pháp ở Đông Dương đều la lớn: “Phải già tay như vậy mới được. Chém cổ chúng nó ngay đi! Còn chờ đợi gì nữa!” Có báo lại viết: “Có lẽ là bên Ba Lê cứu tội chết cho mấy chục cái đầu ấy chăng!”

 Các Đại Biểu Pháp (les Élus) ngoài Bắc cũng như trong Nam họp nhau lại gửi điện tín về Ba Lê, yêu cầu chính phủ cho phép Toàn quyền Đông Dương được rộng quyền xử tử những việc rối ren trong xứ, nghĩa là Toàn quyền Đông Dương được y án chém, khỏi phải gửi hồ sơ qua Pháp nữa.

 Ngày 31 tháng 3 năm 1930, tin từ Ba Lê gửi qua: “Thuộc địa Thượng Thư trả lời rằng: luật lệ nhà nước đã định như vậy, chỉ có Tổng Thống mới có quyền ân xá cho phạm nhân, chớ không có thể làm trái luật nước đi mà để cho Chính phủ Đông Dương có quyền ấy được.” (1) 

Ngày tháng trôi qua, đến đầu tháng 6, một công điện từ Ba Lê đánh sang Hà Nội, báo tin Tổng Thống Doumergue đổi 26 án tử hình ra án khổ sai chung thân (2); còn lại 13 người bị y án. Nhưng tin ấy Chính quyền thực dân hết sức giữ bí mật.

Mãi đến chiều ngày 16 tháng 6, một đội lính Lê Dương cùng một số nhà hữu trách tiến vào dãy sà-lim án tử hình, kêu tên Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông xích tay 2 người làm một đưa ra đi.

Từ trong sà-lim án chém bước ra các trại giam ngoài, Nguyễn Thái Học hô to:

 – “Chúng tôi đi trả nợ nước đây. Các anh em còn sống cứ công nào việc ấy nhé! Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu! Hoa tự do phải tưới bằng máu! Tổ Quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều nữa, nhiều nữa! Rồi thế nào cách mạng cũng thành công! Thôi kính chào các anh em ở lại…”

 “Tiếng chào anh em ở lại” hòa với tiếng la ó cảm động của phạm nhân trong khắp các trại giam, trở nên vang động khắp khu Hỏa Lò.

Để giữ kín đến phút cuối cùng, Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông được đưa đi trong một buổi hoàng hôn ảm đạm từ Hà Nội đi Yên Bái bằng một chuyến xe lửa riêng.

Một đoàn xe hơi thuộc loại fourgonnette đen, bọc lưới sắt, từ trong cổng ngục thất Hỏa Lò tiến ra, ngoài số 13 chiến sĩ, số lính võ trang súng ống rất đông cùng ngồi trên xe canh chừng rất nghiêm ngặt. Đoàn xe lướt nhanh qua đường Jean Soler, rẽ ra đại lộ Carreau, chạy thẳng ra đường Hàng Lọng, rồi rẽ tay trái thẳng tới ga Hàng Cỏ. Hai bên dọc đường đều có rất đông lính canh gác rất cẩn mật.

 Khi đoàn xe vừa vượt qua đường Jean Soler, thì có một số khoảng hơn 20 người, trước đó đứng tản mác mỗi người một nơi trước khu vườn trồng rau bên cạnh Sở Căn Cước cũ, vội xô cả ra lề đường, thì trên xe phát ra những tiếng hô to: “VIỆT NAM MUÔN NĂM”, “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM” vang động rền trời! Đồng thời một mảnh giấy cũng được vứt từ trên xe thứ 3 xuống mặt đường.

Một số người đứng trên lề đường cũng vừa hô to những khẩu hiệu như trên, rồi ùa nhau ra đường để nhặt mảnh giấy ấy. Nhưng đồng thời chiếc xe hơi đó cũng ngừng ngay lại, một số lính đứng trên xe vội nhảy xuống đường giành giựt để nhặt mảnh giấy ấy. Số lính đứng gác hai bên lề đường cũng ùa nhau đuổi theo bắt đánh những người đã nhặt được mảnh giấy ấy. Kết quả bọn lính trên xe hơi đã cướp lại được, rồi vội nhảy lên xe, rồ máy chạy nhanh. Người ta còn vẳng nghe tiếng kêu của những phạm nhận ở trên xe hơi, có lẽ anh em đã bị lính đánh đập tàn nhẫn.

Trong chuyến xe lửa riêng này có mấy viên thanh tra mật thám Pháp và một số mật thám ta, viên giám binh người Pháp và một đội lính Khố Xanh đi kèm. Ngoài ra còn có 2 ông Cố đạo: Méchet và Dronet. Trong chặng đường trường dài 4 tiếng đồng hồ, tất cả đều chuyện trò vui vẻ. Phó Đức Chính nói:

 – “Chúng ta đến ga Yên Bái, chắc chắn sẽ được các đồng chí Lương, Tiệp, Thuyết, Hoằng ra đón rước nồng hậu.”

 Nguyễn Thái Học đấu khẩu với cố Dronet:

 – “Chúng tôi chỉ là những kẻ chiến bại, chứ đâu phải là kẻ có tội!”

 – “Chúng tôi có phạm tội gì đâu mà phải ăn năn thú tội!” Rồi nhà cách mạng họ Nguyễn ngâm mấy câu thơ Pháp:

 “Mourir pour sa patrie, (3)

 C’est le sort le plus beau.

 Le plus digne d’envie…”

 Cái máy chém cũng được đưa lên một cách lén lút như vậy. Trong thành phố Yên Bái không ai ngờ có chuyện đó!

 Pháp trường là một khu đất trống, giống như một bãi đá banh, xung quanh có mấy dãy nhà gạch một tầng mới cất, đó là trại binh Khố Xanh và nhà tiếp đón khách vãng lai của chính quyền.

Bên cạnh máy chém, thực dân cho để 15 chiếc hòm gỗ (quan tài).

Họ phải đề phòng như vậy, 18 phút cuối cùng e có sự thay đổi bất thần chăng? Xung quanh pháp trường có 400 lính được phái đến vây kín khiến việc mang bom của cô Giang dự định đến phá pháp trường không hoạt động gì được. Công chúng người dân Việt ta không lấy gì đông đảo, và hoàn toàn im lặng đau xót!

 5 giờ kém 5 phút, toán người đầu tiên từ nhà giam tiến đến pháp trường: 4 bộ binh mang súng có lưỡi lê, 2 bộ binh tay không để đề phòng sự té xỉu của phạm nhân trong quãng đường ngắn đó, nhưng không có một phạm nhân nào té xỉu, dẫn đầu là viên Công sứ De Bottini.

 Cả bọn tiến đến gần máy chém, đao phủ thủ là cai Công (4) dắt BÙI TỬ TOÀN 37 tuổi, nông dân, sinh quán tại làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, đẩy vào tấm ván vừa bằng một người bắc nối vào lỗ máy chém.  BÙI TỬ TOÀN mới hô được tiếng “VIỆT NAM”, liền bị lính Lê Dương bịt miệng lại, rồi đao thủ phủ liền giật lưỡi dao phập xuống. Người thứ hai tiến lên máy chém là:

 BÙI VĂN CHUẨN, 35 tuổi, thuộc Binh Đoàn Yên Bái, BÙI VĂN CHUẨN mới hô to được tiếng “VIỆT NAM”, thì cũng bị lính lê dương bịt miệng lại, và Cai Công cũng giật lưỡi dao ngay. Người thứ 3 là:

NGUYỄN AN, 31 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Bái, NGUYỄN AN cũng hô to được tiếng “VIỆT NAM”, rồi bị chém. Người thứ 4 là:

HÀ VĂN LẠO, 25 tuổi, thợ hồ, cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT NAM”, rồi bị chém. Người thứ năm là:

ĐÀO VĂN NHÍT thuộc Binh đoàn Yên Bái.  ĐÀO VĂN NHÍT mới hô được tiếng “VIỆT…”. Người thứ 6 là:

NGÔ VĂN DU (5) thuộc Binh đoàn Yên Bái. Người thứ 7 là:

NGUYỄN ĐỨC THỊNH, thuộc Binh đoàn Yên Bái. NGUYỄN ĐỨC THỊNH cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT NAM”. Người thứ 8 là:

NGUYỄN VĂN TIỀM thuộc Binh đoàn Yên Bái. NGUYỄN VĂN TIỀM cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT…”. Người thứ 9 là:

ĐỖ VĂN SỨ thuộc Binh đoàn Yên Bái, cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT NAM”. Người thứ 10 là:

BÙI VĂN CỬU thuộc Binh đoàn Yên Bái, cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT…”. Người thứ 11 là:

NGUYỄN NHƯ LIÊN tức NGỌC TỈNH, 20 tuổi, học sinh, quán làng Cao Mại, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, cũng chỉ hô to được tiếng “VIỆT NAM”. Đến người thứ 12 là:

PHÓ ĐỨC CHÍNH, nhà cách mạng họ Phó đòi thực dân cho được nằm ngửa để xem lưỡi dao rớt xuống như thế nào?  Tiếp đến:

NGUYỄN THÁI HỌC, được thực dân dẫn từ nhà giam ra lần cuối cùng, lần thứ 13. Người anh hùng dân tộc ấy với bộ râu quai nón, mỉm cười, đưa cặp mắt sáng quắc nhìn bốn phía, nghiêng mình chào đồng bào một lần cuối cùng, hô to: “VIỆT NAM MUÔN…” thì Công sứ De Bottini liền vẫy tay lần thứ 13, đầu NGUYỄN THÁI HỌC rơi. (6)

Lúc đó là vào hồi đứng 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930, tức ngày 21 tháng 5 Canh Ngọ. (7)

Hình ảnh các vị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Báy 10-02-1930

Để đề phòng và trả thù xác chết, sau khi hành quyết xong, chính quyền thực dân cho đưa thi hài 13 vị liệt sĩ lên chôn chung vào một huyệt ở dưới chân đồi Cao, bên cạnh đồi là đền thờ Trần Quán, cách ga xe lửa Yên Bái độ một cây số. Phái lính đến canh gác suốt ngày đêm, cho mãi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh. (8)

Sau này, VNQDĐ chiếm đóng tỉnh Yên Bái vào cuối tháng 10 năm 1945, Tỉnh Đảng bộ VNQDĐ đã tu bổ lại phần mộ 17 vị liệt sĩ Yên Bái và dựng đài kỷ niệm.

NGUYỄN VĂN TOẠI CÙNG BỐN ĐỒNG CHÍ LÊN MÁY CHÉM 

 Ngày 26 tháng 5 năm 1930, Hội Đồng Đề Hình họp phiên xử công khai tại một nhà kho rộng, bên cạnh Tòa sứ tỉnh Phú Thọ, chủ tịch Hội Đồng Đề Hình: Poulet Osier, thanh tra chính trị, bận lễ phục trắng, ngồi ghế chánh án. Lính Sen Đầm và lính Lê Dương đứng xung quanh tường súng cắm lưỡi lê, làm thành một hàng rào.

 Có hai luật sư biện hộ cho 85 bị cáo, trong số có một phụ nữ là chị Nguyễn Thị Lùn. (9)

 Nguyễn Văn Toại tức Đồ Thúy mặc áo dài thâm quần trắng, trên mép để ria, ông tỏ ra nóng nảy, Tòa hỏi chưa hết câu, ông đã nói:

 – Tôi nhận hết.

 – Tại sao tòa chưa hỏi mà anh lại trả lời?

 – Tòa muốn buộc tội gì, tôi cũng chịu hết.

 Một bị cáo khác được gọi ra, tòa hỏi:

 – Anh có phải là đảng viên VNQDĐ không?

 – Tôi chỉ là một người Việt Nam. Tôi thương xót đồng bào tôi bị cực khổ quá cho nên tôi tham dự vào công cuộc tấn công đồn binh Pháp ở Hưng Hóa.

 Lại một người khác khai:

 – Tôi không được tham dự vào cuộc tấn công đó, vì tôi đau mắt nặng. Nếu tôi không bị đau mắt nặng, thì tôi nhất định làm như mọi người khác.

 Đến lượt một bị cáo mới 15 tuổi được gọi ra khai:

 – Tôi giúp anh tôi làm một điều công lý. Nói vừa hết câu, thì bị Poulet Osier đuổi về ngồi chỗ cũ. 

 Rồi đến một người nông dân chừng 40 tuổi, anh khai:

 – Tôi chẳng có chân trong một hội kín, hội hở nào cả! Tôi chỉ là người Việt Nam! Tôi có bổn phận phải đánh đuổi người Pháp ra khỏi lãnh thổ nước tôi, để khôi phục lại nền độc lập cho Tổ Quốc tôi. (10)

 Nguyễn Thị Lùn khảng khái nhận hết tội mà Hội Đồng Đề Hình buộc là tuyên truyền, liên lạc và chuyển vận võ khí, v.v…

 Trần Văn Hợp đứng lên cãi rất hùng hồn, nhưng Poulet Osier đuổi về không cho phép anh được nói tiếp.

 85 bị cáo, mà tòa chỉ xử trong có 3 phiên chớp nhoáng, rồi tuyên án:

 10 người bị tử hình;

 27 người bị khổ sai chung thân;

 37 người bị cấm cố chung thân;

 4 người bị 20 năm khổ sai;

 1 người bị 5 năm khổ sai;

 3 người bị 20 năm cấm cố;

 2 người bị phạt giam trong nhà trừng giới;

 1 người được tha bổng.

 10 án tử hình là: Trần Văn Hợp, Bùi Văn Bồi, Lê Xuân Huy, Bùi Xuân Mai, Nguyễn Đắc Bằng, Nguyễn Văn Quế, Nguyễn Văn Toại, Phạm Nhận, Lê Đình Cư, Vũ Văn Mô. 

 Bản án gửi qua Ba Lê, Tổng Thống Pháp giảm 5 án xuống khổ sai chung thân, và y án tử hình 5 liệt sĩ dưới đây:

 NGUYỄN VĂN TOẠI tức ĐỒ THÚY, 33 tuổi, nguyên quán Lâm Thao, Phú Thọ.

 TRẦN VĂN HỢP, nguyên quán tại Thanh Ba, Phú Thọ.

 PHẠM NHẬN tức ĐỒ ĐIẾC (?)

 LÊ XUÂN HUY, 31 tuổi, nông dân, quán Cổ Pháp, Bất Bạt, Sơn Tây.

 BÙI XUÂN MAI, nông dân, nguyên quán Cổ Pháp, Bất Bạt, Sơn Tây.

 5 vị anh hùng dân tộc ấy đã lên máy chém thực dân tại tỉnh Phú Thọ vào sớm ngày 22 tháng 11 năm 1930, tức ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. 

ĐẶNG TRẦN NGHIỆP tức KÝ CON CÙNG SÁU ĐỒNG CHÍ LÊN MÁY CHÉM 

 Ngày mồng 5 tháng 8 năm 1930, Hội đồng đề hình họp phiên công khai tại Pháp đình Hà Nội để xét xử 148 bị cáo.  Qua ngày mồng 9, tuyên án:

 12 người bị án tử hình;

 11 người bị án khổ sai chung thân;

 4 người bị án khổ sai 10 năm;

 2 người bị án cấm cố 10 năm;

 2 người bị án phát lưu 5 năm;

 3 người bị án 5 năm tù ở;

 114 người bị án phát lưu chung thân.

 Bản án gửi qua Ba Lê, Nguyên Bá Tâm (11), Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng được Tổng Thống Pháp giảm xuống án khổ sai chung thân, còn y 7 án tử hình, đã lên máy chém thực dân vào cuối năm 1930 tại trước cổng ngục thất Hòa Lò, Hà Nội; là các liệt sĩ:

 ĐẶNG TRẦN NGHIỆP tức KÝ CON

 LƯƠNG NGỌC TỐN tức CHÁNH TỐN

 NGUYỄN VĂN NHO

 NGUYỄN QUANG TRIỂU

 NGUYỄN MINH LUÂN

 NGUYỄN TRỌNG BẰNG

 PHẠM VĂN KHUÊ tức CAI KHUÊ (12) 

TRẦN QUANG DIỆU CÙNG BA ĐỒNG CHÍ LÊN MÁY CHÉM 

 Sau khi thẩm vấn xong, ngày mồng 7 tháng 11 năm 1930, Hội Đồng Đề Hình nhóm phiên xử công khai tại tỉnh lỵ Hải Dương. Có 193 bị cáo, gồm toàn thể đảng viên VNQDĐ.

 Trước vành móng ngựa, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Giáo và Trần Nhật Đồng cực lực lên án thực dân đã tàn sát cả ông già, đàn bà cùng trẻ con, triệt hạ làng Cổ Am và các làng xóm khác. Viên Chánh Hội Đồng Đề Hình phải ra lệnh cho lính bịt miệng lại và phải về chỗ ngồi.

 Sau 7 ngày cứu xét, Hội Đồng Đề Hình tuyên án:

 8 người được tha bổng;

 8 người bị tử hình;

 28 người bị khổ sai chung thân;

 87 người bị lưu đày không có kỳ hạn (trong số có chị Lê Thị Thành);

 20 người bị 20 năm khổ sai;

 7 người bị 15 năm khổ sai;

 1 người bị 5 năm tù treo;

 30 người bị 20 năm phát vãng;

 3 người bị 15 năm phát vãng;

 1 người bị cấm cố chung thân.

 Bản án gửi qua Ba Lê, 2 người được giảm xuống khổ sai chung thân. Còn lại 6 chiến sĩ bị y án tử hình là Trần Quang Diệu, Vũ Văn Giáo tức Lý Giáo, Trần Nhật Đồng tức Cai Đồng, Nguyễn Văn Phúc (cựu binh), Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Xuân Huân.

 Đến sớm ngày 23 tháng 6 năm 1931 (tức ngày mồng 8 tháng 5 năm Tân Tỵ), 4 liệt sĩ:

 TRẦN QUANG DIỆU

 VŨ VĂN GIÁO

 TRẦN NHẬT ĐỒNG

 NGUYỄN VĂN PHÚC

 Bị hành hình tại tỉnh lỵ Hải Dương. Tất cả 4 liệt sĩ, thực dân ra lệnh chôn chung vào một huyệt tại ngay phía sau đề lao tỉnh lỵ tỉnh Hải Dương gần xóm hàng Đồng. 

LÊ HỮU CẢNH, NGUYỄN XUÂN HUÂN LÊN MÁY CHÉM 

Bị kết án tử hình và y án, nhưng trú quán ở thành phố Hà Nội, nên sớm ngày 23 tháng 6 năm 1931, thực dân đã hành quyết LÊ HỮU CẢNH và NGUYỄN XUÂN HUÂN tại trước cổng ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội. 

HỘI ĐỒNG ĐỀ HÌNH TỈNH KIẾN AN 

 Sau phiên tòa xử vụ khởi nghĩa Phụ Dực, Vĩnh Bảo ở Hải Dương. Hội Đồng Đề Hình chuyển xuống tỉnh Kiến An, họp phiên xử công khai vào ngày 30 và 31 tháng Giêng năm 1931 do Poulet Osier ngồi ghế chánh án. Tất cả có 190 bị cáo, can vào 13 vụ khác nhau trong số có 75 đảng viên VNQDĐ bị buộc tội là âm mưu đánh phá đồn binh tỉnh Kiến An; số còn lại đều thuộc vào tổ chức ĐDCSĐ can vào các vụ rải truyền đơn, biểu tình, v.v… ở các khu hầm mỏ thuộc vùng duyên hải Bắc Việt.

Hội Đồng Đề Hình tuyên bố tha bổng 5 người; còn lại 185 người đều bị kết án khổ sai có thời hạn. (13)

Nguyễn Văn Lực được trắng án.

Chờ ngày phát lưu ra Côn Đảo, số phạm nhân 185 người đều được chuyển xuống tạm giam ở ngục thất Hải Phòng. Trong khi ấy Nguyễn Thế Long đã cùng 8 phạm nhân khác tổ chức vượt ngục, nhưng duy có Nguyễn Thế Long là trốn thoát.

 Bởi vụ vượt ngục ấy, Đốc Lý Hải Phòng đã ra lệnh cùm các phạm nhân. Các chiến sĩ VNQDĐ đã cùng nhau tranh đấu phản kháng kịch liệt với chính quyền thực dân, gây nên vụ xô xát đẫm máu. Để hiểu rõ vấn đề, xin độc giả đọc bản Thông cáo của phủ Thống sứ Bắc Việt, theo nguyên văn dưới đây:

 “Nhân vụ Nguyễn Thế Long là người bị Hội Đồng Đề Hình kết án 20 năm khổ sai, đã tổ chức vượt ngục vào đêm 21 tháng 9 năm 1931, nên quan Đốc Lý Hải Phòng ra lệnh cho trù liệu các phương sách đề phòng và bảo vệ những tù nhân tại khám.

 “Có 75 tù phạm VNQDĐ bị kết án nặng hiện đương bị giam tại khám Hải Phòng sắp giải đi Côn Đảo, không bằng lòng về các phương sách đó. Họ hăm dọa và toan đánh các viên chức coi ngục, bằng nhiều tấm ván và những đanh sắt tháo ở sàn ra. Các viên Sen Đầm đến dẹp, họ cũng bị đối phó như thế. Các viên chức liền đem vòi rồng tới xịt nước một hồi lâu, mà họ cũng vẫn không chịu phục tòng. Quan Đốc Lý bèn cho kêu gọi binh lính gác xung quanh trại giam đến, nhưng cũng bị họ đánh. Sau khi đã ra lệnh cảnh cáo, và bắn ít phát súng chỉ thiên, binh lính liền xông vào ngục để khôi phục trật tự. Số tù phạm VNQDĐ có 4 người chết và 8 người bị thương. Bên lính cũng bị thương mất mấy người. (14) 

TÒA ÁN ĐẠI HÌNH SÀI GÒN 

 Tháng 6 năm 1929, sở Mật Thám Nam Việt đã huy động một số đông thám tử giăng lưới khám nhà và bắt hết nhân viên Ban Chấp hành Chi bộ đặc biệt VNQDĐ miền Nam đem giam giữ tại khám lớn Sài Gòn.

Sau một thời gian cứu xét khá lâu, mãi đến ngày 15 tháng 7 năm 1930 mới đưa ra xử công khai trước Tòa án Đại hình Sài Gòn cùng với vụ án đường Barbier (tức đường Lý Trần Quán thuộc khu Tân Định hiện nay). Do Kỳ Bộ VNTNCMĐCH Nam Kỳ tổ chức giết 2 đồng chí của họ là Lê Văn Phát và cô Nhựt, can tội phản đảng.

Sáng ngày 18 tháng 7, Tòa tuyên án về vụ VNQDĐ tại miền Nam như sau:

– 3 người bị kết án 5 năm tù cấm cố lưu đày ra Côn Đảo: Trần Huy Liệu, Cao Hữu Tạo và Nguyễn Phương Thảo. (15)

– 6 người bị kết án tù từ 2 đến 4 năm, giam tại ngục thất tỉnh Hà Tiên: Nguyễn Hòa Hiệp, Nguyễn Hiền Lương, Phạm Hoài Xuân (16), Hà Thuận Hồng, Võ Công Tồn tức Hội đồng Tồn và Đỗ Xuân Viên.

 =============================

Chú Thích:

(1) Theo tài liệu của Tuần báo “Phụ Nữ Tân Văn” Sài Gòn.

(2) 26 án tử hình được giảm xuống khổ sai chung thân là các chiến sĩ: Nguyễn Văn Thân tức Ký Thân, Vũ Tích, Lê Văn Tư, Nguyễn Đình Hiên, Nguyễn Văn Ty, Nguyễn Văn Ông, Bùi Văn Dụ, Bùi Văn Tuyết, Cao Văn Chính, Mai Viết Chinh, Hoàng Văn Vọng, Nguyễn Văn Khôi tức Thanh Giang, Hà Cập, Nguyễn Văn Tinh, Nguyễn Văn Kiệm, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Đắc Bằng, Nguyễn Văn Chu, Nguyễn Như Thông, Vũ Xuân Kiểm, Trần Đức Tài, Hoàng Công Tiễn, Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Đức Liên, Mai Duy Xứng, Nguyễn Văn Liên.

 (3) “Chết vì Tổ Quốc”

       “Lòng ta sung sướng!

       “Trí ta nhẹ nhàng…!

 (4) Dưới thời thực dân Pháp, người giật lưỡi dao chém mà thực dân gọi là phạm nhân, ấy là CAI CÔNG, là một giám thị trong ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội, phụ tá Cai Công là Cai Long cũng là một giám thị cùng một ngục thất.  Cứ chém xong một phạm nhân, Cai Công xách thủ cấp giơ lên cao để trình bày, như vậy là đã hành hình xong một phạm nhân. Cai Công được thưởng một món tiền nhất định, nhưng quên không rõ là bao nhiêu?

Những ngày bị giam ở ngục thất Hòa Lò về vụ ám sát Bazin, chúng tôi thường gặp mặt Cai Công, người thấp và mập, nhưng có một điều lạ, là mặt y lúc nào cũng đỏ rực, giống hệt như một con quỷ khát máu hiện hình.

Cứ mỗi năm vào ngày rằm tháng 7, ngày “xá tội vong linh”, y đều sắm lễ vật cúng những linh hồn mà y đã chém; nhưng vợ chồng y vẫn không tránh thoát được tai nạn “Hữu sinh vô dưỡng”.

Bị giam ở sà-lim, phía sau có gác bộ phận máy chém, cứ mỗi đêm khuya, mọi người đều nghe rõ có tiếng máy chém kêu “leng keng”, thì y như là cách ngày hôm sau, chiếc máy chém ấy được hạ xuống để đem chém người.  

 (5) Không rõ vì lý do nào mà Ngô Văn Du luôn mồm kêu là bị chết oan. Phó Đức Chính nói: “Đúng vậy, đầu tôi có thể thay thế cho 3 đầu mà đầu của anh Du là thừa.” 

 (6) Theo tài liệu của Louis Roubaud trong cuốn “Việt Nam Bi Thảm” nơi trang 154-161.

 (7) Xem bài văn tế của cụ Phan Sào Nam ở “Thiên Phụ”.

 (8) Giữa thời thực dân toàn thịnh ấy, giữa thời thực dân đại khủng bố phong trào cách mạng dân tộc ấy, đã có một công dân Việt Nam là ông Tạ Giao Hiền, hội đồng địa hạt làng Hòa Bình, thuộc tỉnh Bạc Liêu (Nam Việt), đã dám từ Nam ra Bắc tìm người hướng đạo đi viếng mộ Nguyễn Thái Học, nhưng không một ai dám lãnh nhiệm vụ ấy. Cuối cùng họ Tạ phải tìm đến làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nhờ vị thân mẫu Nguyễn Thái Học thân dẫn đến Yên Bái viếng mộ phần 17 vị anh hùng.

 Chúng tôi cũng ghi thêm ở đây rằng: ông Tạ Giao Hiền là người đã săn sóc thuốc men cùng góp phần lo liệu khi cụ Phan Tây Hồ tạ thế tại Sài Gòn. Và cũng là người đã kịch liệt đả kích nhóm lập hiến của ông Bùi Quang Chiêu ra mắt tại nhà Hát Lớn, Sài Gòn.

 (9) Nguyễn Thị Lùn nguyên quán tại làng Chu Hóa, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, bị HĐĐH kết án 20 năm cấm cố.

 (10) Ký giả Louis Roubaud viết trong cuốn “Việt Nam Bi Thảm” nơi trang 126 rằng: “Tại Phú Thọ, tôi đã được mắt thấy những người nhà quê không có chân trong đảng phái nào mà cũng nức lòng theo cách mạng. Vậy tại sao lại bảo cuộc cách mạng ấy là chỉ do một nhóm người trí thức bất mãn nổi lên!”

 (11) Sau 8 năm được ân xá, Nguyễn Bá Tâm trở về nguyên quán làng Cẩm Khê thuộc tỉnh Phú Thọ. Thấy Tri huyện Cẩm Khê là Phạm Gia Khánh là một tên tham quan ức hiếp dân lành một cách vô cùng tàn nhẫn. Tại bến đò Chí Chủ, Nguyễn Bá Tâm một tay bị cụt ghì chặt lấy cổ huyện Khánh, một tay rút dao đâm chết Phạm Gia Khánh tại chỗ. Nguyễn Bá Tâm bị thực dân đưa lên máy chém tại tỉnh Phú Thọ vào năm 1941.

 (12) Cai Khuê quán làng Quế Dương, tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông.          

(13) Trong số có Vũ Văn Giản (tức Vũ Hồng Khanh sau này) bị kết án vắng mặt 20 năm khổ sai.

(14) Theo tài liệu của tạp chí Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn.

 (15) Nguyễn Phương Thảo sau đổi tên là Nguyễn Bình, nguyên quán ở làng Bần, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt). Phụ trách công tác liên lạc giữa Chi bộ VNQDĐ Sài Gòn với Tổng Bộ VNQDĐ Hà Nội.

 Năm 1945, Nguyễn Bình tham gia vào hàng ngũ Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Năm 1946, VM  trao trọng trách vào chỉ huy mặt trận kháng chiến Nam bộ. Uy danh của Nguyễn Bình rất lớn, vì được các đồng chí cũ giúp sức.

 Đã đến lúc không thể để một cựu đảng viên VNQDĐ như Nguyễn Bình được phép sống nữa, VM liền ra lệnh gọi ra Bắc lãnh công tác khác. Trên đường trở ra Hà Nội ngày 29.9.1951, một toán quân tuần tiễu đã được VM  báo trước phục kích bắn chết Nguyễn Bình trong một khu rừng già thuộc phần đất Cao Miên.

 (16) Phạm Hoài Xuân nguyên quán tại Phan Thiết, hiện nay vẫn hoạt động cách mạng trong hàng ngũ VNQDĐ tại Phan Thiết.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (10)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương X: CUỘC TRANH ĐẤU TIẾP TỤC KHÔNG NGỪNG”…

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG X:  CUỘC TRANH ĐẤU TIẾP TỤC KHÔNG NGỪNG 

GIAI ĐOẠN 1931-1932 

Từ tháng 3 năm 1931, VNQDĐ không còn tuyên truyền đồng thời như trước nữa trên khắp lãnh thổ Bắc Việt.  Cuộc tuyên truyền được thu hẹp từng gia đình và chỉ trong một vài tỉnh mà những người lãnh đạo đầu tiên còn gây ảnh hưởng bản thân lâu dài. Ngoài những thành phố Hà Nội và Hải Phòng, những vùng Phú Thọ, Vĩnh Yên, Hải Dương và Bắc Ninh đặc biệt còn bị ảnh hưởng của VNQDĐ mà chính quyền Pháp gọi là còn “nhiễm uế”.

Những người cầm đầu những mưu toan khác biệt này dần dần đưa đến đồng nhất nguyên lý để giữ một kỷ luật phải hoàn toàn “Mật”, họ tiên liệu quy chế đối với tất cả các cấp bậc của Đảng, của một ban ám sát. Họ quyết định trừng phạt không chùn tay những ai phản bội “Lời thề”.

Một trong những người chủ mưu can đảm nhất trong việc tổ chức lại công việc tuyên truyền là Vũ Tiến Lữ bị xử án khuyết tịch, đã tham gia nhiều vụ làm kinh tài trong tỉnh Thái Bình cho Đảng.

Từ đầu năm 1931, Lữ qui tụ được một số lớn đảng viên trong vùng Hà Nội và Hải Phòng, và nhanh chóng xem như là lãnh tụ. Nếu Vũ Tiến Lữ không bị bắt buộc phải rời khỏi Bắc Việt, bị tầm nã gắt gao bởi mật thám, và tự cảm thấy gần kề bị bắt, Vũ Tiến Lũ vượt biên giới vào cuối năm 1931, trốn sang Vân Nam, trở nên một người lãnh đạo đáng sợ nhất thuộc Chi bộ của đảng cách mạng do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức ở Vân Nam (Trung Hoa).

Từ khi có cuộc đàn áp, Vân Nam là nơi trốn tránh của những cá nhân bị lùng bắt hay bị xử khiếm diện, nhiều người, trong số có vợ của Nguyễn Ngọc Sơn và một cô giáo khác theo đường qua Vân Nam. Còn hai giáo viên là phần tử ưu tú của Đảng: Trần Ngọc Tuân và Bùi Văn Hạch cũng vượt biên giới.

Từ khi Vũ Tiến Lữ ra đi, không có lãnh tụ nào tỏ ra có khả năng điều khiển ở quốc nội một hành động tổng hợp của Đảng; những cố gắng đều rời rạc. Ngoài ra mỗi lần có ý định tổ hợp thì lại xảy ra bố ráp của sở mật thám, họ mở những cuộc bắt bớ quan trọng.

Vào tháng 10 năm 1931, mười đảng viên bị bắt trong tỉnh Vĩnh Yên, vào tháng Giêng và tháng Hai năm 1932, xảy ra hơn 40 vụ bắt bớ làm Đảng hoàn toàn tan rã trong tỉnh này là trung tâm kháng chiến của VNQDĐ.

Đầu năm 1932, những tổ trong tỉnh Hải Dương do phong trào đàn áp còn bỏ sót, bắt đầu nhóm lại với ảnh hưởng của một chiến sĩ bị xử án khiếm diệm là Đào Nguyên Huân tục gọi Khóa Vát (1). Những đảng viên có ảnh hưởng nhất đứng ra tổ chức nhiều tổ mới mà họ điều khiển luôn luôn thuộc vào bộ trung ương. Một vài công chức của Nhà nước cũng tán trợ nhiều hay ít phong trào, và nhiều buổi hội họp được tổ chức tại nhà của nhiều người. Như vậy Đảng gây ảnh hưởng mau lẹ trong những vùng Kinh Môn, Chí Linh và Cẩm Giàng. 

Nhóm người ấy không từ chối những âm mưu khủng bố và ám sát. Bởi vì Đảng chưa nghĩ tới chuyện ám sát; nhưng đã tổ chức ban ám sát gồm: 1 chủ tịch, 1 tổng thư ký, 1 thu ngân viên, 2 ủy viên và 1 liên lạc viên.

Ủy ban ám sát có nhiệm vụ chẳng những loại trừ kẻ địch ra khỏi Đảng, mà còn lo điều hành việc tài chính, có thể lập bao nhiêu tiểu tổ, nếu xét ra thấy cần.

Bom cũng được chế tạo theo phương thức mới. Các đảng viên thuộc Chi bộ Vân Nam gửi về công thức và sơ đồ. Sơ đồ do chính tay Vũ Tiến Lữ ghi chú. Nhiều quả bom thuộc loại mới này tìm thấy dấu trên mái của một căn nhà trong một làng của tỉnh Bắc Ninh, tình cờ nổ ngày 29 tháng 2 năm 1932.

Sau đó ít lâu, Đảng quyết định ám sát một cựu đảng viên tên là Nguyễn Trung Khuyến bị tình nghi là đã gây ra nhiều vụ bắt bớ tại Hải Phòng trong tháng 4 năm 1931. Ngày 16 tháng 4 năm 1932, hắn bị xử tử với nhiều vết gươm và dao gần Đáp Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vụ ám sát này làm cho 2 đảng viên bị bắt.

Ngày 19 tháng 9 năm 1932, các đảng viên của VNQDĐ trong tỉnh Hải Dương tổ chức bầu cử một ủy ban Liên Tỉnh, nhiệm vụ tập hợp lại và điều khiển những tổ trong các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Ninh. Tổ chức mới đề nghị gửi đảng viên qua Vân Nam để viết sách tuyên truyền, lập những tổ phụ nữ huấn luyện tuyên truyền gồm các binh sĩ bản xứ, và tổ chức những tổ thanh niên có nhiệm vụ ghi chép bản đồ của các trại quân lính.

Đảng không có thì giờ đem chương trình ra áp dụng. Ngày 4 tháng 10 năm 1932, một cuộc bố ráp quan trọng trong hai tỉnh Hải Dương và Bắc Ninh, chặn bắt 74 đảng viên.

Từ cuối năm 1931, Hội Đồng Đề Hình không họp, bởi vì Đảng nay suy yếu nhiều, và tuyên truyền của Đảng bị đàn áp. Tòa án thường đã biết tất cả những vụ đặc phát này và xét xử rời ra.

Từ khi xảy ra những vụ bắt bớ ở Hải Dương, chỉ còn một mưu toan nổi dậy được ghi nhận. Mưu định ấy bộc phát tại trung tâm Bắc Quang (Hà Giang), tổ chức bởi một kẻ cô lập với chủ đích gây lại lòng yêu nước của lính Khố Đỏ và tù nhân trong trại giam. Phong trào cuối cùng quay lại làm lợi cho Cộng Sản khi tất cả cơ cấu bị bắt vào tháng 5 năm 1933. (2) 

================= 

Chú Thích: 

 (1) Đào Nguyên Huân tục gọi Khóa Vát, sinh năm Đinh Hợi (1887) tại làng Hưng Triện, huyện Gia Binh thuộc tỉnh Bắc Ninh. Không những là một nhà lão thành cách mạng chân chính, mà lại còn là một nhà văn, thơ lỗi lạc. 

 (2) Chương X này chúng tôi cũng trích dịch trong cuốn “Contribution à Histoire des Mouvements Politiques de L’Indochine Française” do Marty, giám đốc mật thám Đông Dương, viết ra, ấn hành vào năm 1933.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (11)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Nhất (1927-1932) / Chương XI: TỪ HÀ NỘI ĐẾN CÔN LÔN GUYANE FRANÇAISE”

THIÊN THỨ NHẤT (1927-1932) 

CHƯƠNG XI: TỪ HÀ NỘI ĐẾN CÔN LÔN GUYANE FRANÇAISE

Tổng kết các phiên Hội Đồng Đề Hình họp xử công khai về VNQDĐ từ tháng 7 năm 1929 đến tháng Giêng năm 1931 tại các tỉnh: Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Dương và Kiến An đã đưa 37 chiến sĩ VNQDĐ lên máy chém, và ngót 1.000 nam, nữ đảng viên lưu đày đi Côn Đảo và Guy-an (Guyane Francaise). Ngoài ra còn một số hàng trăm người bị giam ở các ngục thất những tỉnh thuộc vùng nước độc miền thượng du Bắc Việt; và còn xử tại Tòa Án thường cũng hàng trăm người.

Kể từ ngày người Pháp sang đặt nền đô hộ ở nước ta, sự chống đối của dân tộc chúng ta kế tiếp liên tục.  Người Pháp đã đem khí giới tối tân đàn áp vô cùng tàn nhẫn. Nhưng xét ra, chưa có cuộc khởi nghĩa nào mà số con dân của đất nước, của dân tộc lại hy sinh quá lớn lao đến thế.

 Cuối năm 1930, chính quyền thực dân bắt đầu thuê tầu Claude Chappe chở một số đảng viên VNQDĐ từ Hải Phòng đến Cap Saint Jacques, rồi chuyển sang tầu Armand Rousseau đưa thẳng ra Côn Đảo.

 Đến tháng 5 năm 1931, chính quyền thực dân lại mướn tầu Martinière chở một số đảng viên VNQDĐ nữa từ Hải Phòng đưa thẳng ra Côn Đảo.

 Cách vài tháng sau, chính quyền thực dân lại mướn tàu Forbin của hãng Chargeurs Réunis hết 500 triệu quan để chở 1.800 phạm nhân (cả thường phạm trọng tội và chính trị phạm, trong số có hơn 300 đảng viên VNQDĐ) từ Côn Đảo đưa đày sang xứ Guy-an (Guyane Française) thuộc nam Mỹ Châu; theo chương trình của chính phủ Pháp, đã định là lợi dụng số phạm nhân bị án nặng ở các xứ thuộc địa của Pháp thay số nhân công phải mướn để khai thác thuộc địa Guy-an của mình.

“Chuồng cọp” là một kiểu trại giam đặc biệt do thực dân Pháp xây dựng ở Côn Đảo từ thập niên 1930 để giam giữ những người Việt Nam yêu nước

 

 TẠI CÔN LÔN. Ngày 14 tháng 10 năm 1941, một số đảng viên VNQDĐ do Bửu Đình tổ chức, đóng bè vượt khỏi Côn Đảo, nhưng cũng từ đó biệt vô âm tín. Trước khi ra đi, Bửu Đình có gửi lại cho Chúa Đảo 4 câu thơ như sau:

 “Mấy lời nhắn nhủ chú Bu-Vê (Bouvier)

 “Chú ở ta đi quyết một bề!

 “Chim đã sổ lồng bay thẳng cánh!

 “Trời cao biển rộng nước non quê.”

 Một số đông chiến sĩ vì quá lao khổ và tật bệnh kiệt sức bị chết ngoài Côn Đảo.

 Năm 1936, khi Mặt Trận Bình Dân Pháp lên cầm quyền, một số chiến sĩ VNQDĐ hàng trăm người được trả tự do; số còn lại đều được trở về quê hương vào cuối năm 1945.

 Nhưng có một chuyện chúng tôi không thể bỏ qua mà không ghi nhận ở đây, đó là vấn đề QUỐC-CỘNG ở ngoài Côn Đảo thời ấy.

 Nguyên anh Trương Dân Bảo một Trung ủy VNQDĐ bị thực dân kết án 10 năm đày ra Côn Đảo từ 1929 (vụ ám sát Bazin). Tại Côn Đảo, những giờ phút ra sân chơi, Bảo thường liên lạc mật thiết với một người bạn cán bộ Cộng Sản, khiến cho một đồng chí của họ Trương là anh Đội Lãng đã phải khuyến cáo Trương Dân Bảo nhiều lần, nhưng Bảo đã không chịu nghe lời. Đội Lãng cho Bảo là kẻ phản Đảng đi theo Cộng Sản. Đội Lãng lặng lẽ sửa soạn một lưỡi dao con chó thật bén, chờ cơ hội hạ thủ Trương Dân Bảo.

 Cơ hội ấy đã đến, trong giờ ra chơi sân hôm ấy, Trương Dân Bảo bá vai bạn Cộng Sản, chuyện vãn một cách say sưa ở phía sau trại giam. Đội Lãng liền đến nắm cổ áo tặng cho Bảo một lưỡi dao con chó vào cổ. Bảo ngã quỵ, Đội Lãng yên trí là Bảo đã chết, liền quay về đứng dõng dạc trên thành giếng trước cửa trại hô to:

 – “Hỡi các đồng chí! Tôi đã giết tên phản Đảng là Trương Dân Bảo rồi! Hỡi bọn Cộng Sản! Chúng bay hãy coi chừng! Chúng ta không thể sống chung với bọn chúng mày! Tao còn rất nhiều đồng chí sẽ hy sinh cho VNQDĐ như tao. “VIỆT NAM MUÔN NAM! VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NAM!”

 Sau khi hô xong, Đội Lãng liền vung dao tự đâm vào cổ mình rồi ung dung bước xuống thảm cỏ cạnh giếng nằm thẳng thắn yên giấc ngủ ngàn thu.

 Trương Dân Bảo đã không chết về tay người cách mạng Quốc Gia cực đoan, mà sau này đã chết bởi bàn tay khát máu của những phần tử Cộng Sản vào thời gian kháng chiến năm 1946 ở miền Nam này.

TẠI GUYANE FRANÇAISE. Năm 1936, khi Mặt Trận Bình Dân Pháp lên nắm chính quyền. Một số nhỏ chiến sĩ VNQDĐ, những người án tương đối nhẹ như Thái Văn Sạ, Giang, Nho, Đính, Già Nam, Hóa… được ân xá trở về nguyên quán.

 Một số vì quá lao khổ đã tự sát tại đấy, trong số chúng tôi còn nhớ: Nguyễn Văn Phú tức giáo Phú, Nguyễn Văn Liên (ném bom Hà Nội), Sư Trạch… và còn hàng trăm chiến sĩ đã vì tật bệnh, vì kiệt sức mà phải bỏ mình; trong số chúng tôi còn nhớ: Nguyễn Văn Hoạt tức Tý Hoạt, Nguyễn Đình Hiếu, Nguyễn Văn Duyên tức giáo Duyên, Nguyễn Văn Hợp, Vũ Văn Mô, Mai Duy Xứng (ném bom Hà Nội), Nguyễn Văn Ất…

Chuồng cọp tại nhà lao Annam ở rừng Amazone Guyane, Nam Mỹ dùng để nhốt những đảng viên VNQDĐ bị lưu đày biệt xứ từ năm 1931 (ảnh VNQDĐ)

 Năm 1941, một số chiến sĩ VNQDĐ tại đấy cũng vì quá cực khổ phải liều mình vượt trùng dương trốn thoát được sang lãnh thổ xứ Guyane Anglaise là Nguyễn Đắc Bằng, Hòa Quang Ơn…

 Năm 1945, ngày tướng De Gaulle lên lãnh đạo chính phủ lâm thời nước Pháp, đã ban hành lệnh ân xá hết thảy chính trị phạm tại các thuộc địa của Pháp. Các chiến sĩ VNQDĐ tại Guyane Francaise được phóng thích hết, nhưng thiếu phương tiện chuyên chở về quê hương, nên có một số đã lấy vợ người thổ dân, sinh cơ lập nghiệp tại đó.

Đến cuối năm 1954, tất cả phạm nhân Đông Dương, kể cả thường phạm, được chính phủ Pháp cho phép được trở về quê hương. Mọi người đều thu xếp giấy tờ hợp lệ. Đến khi tầu cặp bến Cayenne (thủ phủ xứ Guyane Francaise), chính quyền Cayenne lại chỉ cho phép xuống tầu hồi cố hương có 51 đàn ông, 3 phụ nữ (Thổ dân) và 11 trẻ con, trong số chỉ có 3 chiến sĩ VNQDĐ là Trần Ngọc Uẩn, Nguyễn Tường và Lương Như Truật.

Trên đường hồi hương, khi tầu cặp bến Colombo, Trần Ngọc Uẩn (1) bị bệnh tạ thế, được các bạn đồng đội vận động xin được phép thuyền trưởng cho khâm liệm, đưa thi hài về an táng tại Nghĩa trang Chí Hòa, Sài Gòn vào ngày 22 tháng Giêng năm 1955.

Năm 1963, chính trị phạm Việt Nam, gồm cả Quốc Cộng, số còn lại trên phần đất xứ Guyane Francaise, được chính phủ Pháp cho chở hết bằng phi cơ đưa về Pháp, rồi chuyển xuống tàu thủy đưa về Bắc Việt.

Nói đến Guyane Francaise, khi cụ Đề Thám bị kẻ thù giết chết. Cả Rinh cùng một số đồng chí của cụ cũng bị lưu đày sang đấy, và cũng đã đều bị bỏ mình tại đấy.

 Kế đến Thái Nguyên quang phục 7 ngày (1917), một số đồng chí của nhà cách mạng Lương Lập Nham và Trịnh Văn Cấn cũng bị lưu đày sang xứ Guyane Francaise. Hiện nay còn sống sót hai người: một người trốn thoát sang Guyane Anglaise, một người đã ngoài 80 tuổi, lấy vợ thổ dân lập nghiệp ở Cayenne.

==============

Ghi chú:

(1) Trần Ngọc Uẩn nguyên quán tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. 

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đọc bài kế tiếp]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (12)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Hai (1930-1940) / Chương I: “HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG LƯU VONG(phần 1)

THIÊN THỨ HAI (1930-1940)

CHƯƠNG 1:  HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG LƯU VONG (phần 1)

VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG “VÂN NAM ĐỆ NHẤT ĐẠO BỘ”

Từ năm 1929 đến năm 1932, số đảng viên VNQDĐ bị thực dân chém giết và tù đầy tới ngót một ngàn người. Sự hoạt động cách mạng ở quốc nội hầu như tê liệt. Nhưng có một đảng viên nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương trốn sang lãnh thổ Trung Hoa, bắt đầu tổ chức lại Đảng, hoạt động cách mạng lưu vong, ấy là Nguyễn Thế Nghiệp. Nguyễn Thế Nghiệp bị mật thám bắt giam từ ngày 17.12.1929, giao lại Hội Đồng Đề Hình xét xử. Trong những ngày bị thẩm vấn trước Hội Đồng đề hình, Nguyễn Thế Nghiệp đã dùng thủ đoạn lung lạc được ông Brides, Chủ tịch Hội Đồng Đề Hình, giữa khi ông này đã tìm hết cách mà không bắt được Nguyễn Thái Học. Biết rõ nỗi lòng lo âu của ông Brides, Nguyễn Thế Nghiệp đề nghị với ông này thả Nghiệp ra, anh sẽ đi dụ Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Khắc Nhu ra đầu thú. Sự mưu tính rất là khôn khéo và bí mật vô cùng. Nguyễn Thế Nghiệp vẫn bị giam và đưa ra Tòa xử ngày mồng 2 tháng 7 năm 1929 như mọi đảng viên khác, Nguyễn Thế Nghiệp bị kết án mười năm cấm cố. Đợi đến ngày phát vãn cuối tháng 8, thừa khi mọi người thu xếp lộn xộn, kẻ đi Côn Đảo, người đi Hà Giang, Yên Bái… Brides thả Nguyễn Thế Nghiệp ra, cấp giấy tờ, tiền bạc cho Nghiệp đi làm nhiệm vụ mà anh đã cam kết với ông Brides. Nắm được đầy đủ giấy tờ và tiền bạc trong tay nhưng Nguyễn Thế Nghiệp đã không đi tìm Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, mà anh đã đi thẳng lên Lao Kai, tìm đến nhà một đồng chí là Nguyễn Kim Ngữ. Sau khi bàn tính, Nguyễn Kim Ngữ đưa Nguyễn Thế Nghiệp vượt biên giới lên thẳng Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Hoa), giới thiệu với một thanh niên kiều bào nhân viên sở hỏa xa đường Hà Nội – Vân Nam là Đào Chu Khải, hai người rất tương đắc. Sau ít ngày, hai họ Nguyễn, Đào thuê nhà lập trụ sở, tuyên truyền kết nạp kiều bào ở Côn Minh gia nhập tổ chức VNQDĐ vào cuối tháng 9 năm 1929.

Như vậy, Nguyễn Thế Nghiệp có phải là người của Đảng không? Theo ý tác giả, đó chỉ là một thủ đoạn để trốn thoát gông cùm của thực dân, hầu có cơ hội xây dựng lại Đảng. 

Nguyễn Thế Nghiệp đổi tên là Trương Nguyên Minh, bắt liên lạc với một kiều bào là Nguyễn Văn Thọ, Thọ giới thiệu Trương Nguyên Minh với Lê Thọ Nam và Hoàng Vân Nội (1). Hai kiều bào này là sáng lập viên “Trung Việt Cách Mạng Liên Quân”.

Hai họ Lê, Hoàng đều nhận định rằng, số anh em cách mạng hoạt động ở Hải Ngoại không có được là bao! Lại đảng này nhóm nọ, không những lực lượng bị phân tán, đôi khi vì hiểu lầm còn có thể xảy ra sự xô xát lẫn nhau.

Đầu năm 1930, Lê Thọ Nam triệu tập hội nghị, các Đại Biểu đều đồng ý đưa tổ chức “Trung Việt Cách Mạng Liên Quân” sáp nhập vào tổ chức “VNQDĐ” với danh xưng là “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG VÂN NAM ĐỆ NHẤT ĐẠO BỘ” (VNQDĐ-VNĐNĐB). Trương Nguyên Minh được cử làm Đạo Bộ Trưởng, Đào Chu Khải tuyên truyền, Hoàng Vân Nội ngoại vụ.

Sau khi đã tổ chức xong cơ sở, Nguyễn Thế Nghiệp liền phái liên lạc về quốc nội báo cáo tin tức đầy đủ với Nguyễn Thái Học.

VNQDĐ-VNĐNĐB hoạt động rất mạnh mẽ, kết nạp được rất nhiều đảng viên, vì tình máu mủ đồng bào rất thắm thiết, nhất là ở trong hoàn cảnh ly hương xa tổ quốc. Khiến lãnh sự Pháp tại Côn Minh hết sức quan tâm, cố tìm cơ hội để phá vỡ. Nhân có vụ Ngô Học Hiển và Lý Thiếu Trung là 2 tên tướng giặc Tàu ở Mông Tự, Mường Là, Lâm An và A Mi Châu, thế lực rất lớn, chống đối  chính phủ Vân Nam do Long Vân là chủ tịch. Chính phủ Trung Ương ở Nam Kinh gửi một số khí giới cho chính phủ địa phương Vân Nam để dẹp loạn ấy; nhưng phải gửi qua Hải Phòng để chuyển đường xe lửa lên Côn Minh.

Chụp ngay lấy cơ hội, nhà đương cuộc Pháp ở Việt Nam ra lệnh giữ số khí giới ấy lại ở Hải Phòng, rồi ngoại giao với chính phủ địa phương Vân Nam đòi dẫn độ những người cách mạng Việt Nam hiện cư ngụ trên đất Vân Nam cho Pháp, Pháp sẽ cho chuyển ngay số khí giới ấy đến Vân Nam. Long Vân lập tức bắt chín đảng viên VNQDĐ giam vào Cảnh sát cuộc Côn Minh.

Nhờ sự quen biết Cảnh sát trưởng Côn Minh. Hoàng Vân Nội đã ngoại giao và ngầm đưa được số dao găm vào cho các đồng chí khoét tường trốn thoát. (2) Do sự khủng bố này, các cán bộ phải phân tán, mỗi người tạm trú mỗi nơi. Nguyễn Thế Nghiệp phải tạm lánh xuống miền Mông Tự, Mường Là.

Ngày 20 tháng 6 năm 1930, Vũ Văn Giản từ trong nước vượt biên giới trốn thoát sang tới Côn Minh, đổi tên là Vũ Hồng Khanh, bắt đầu liên lạc với các đồng chí Kiều bào hoạt động trở lại. Vũ Hồng Khanh được cử làm Đạo bộ trưởng thay Nguyễn Thế Nghiệp, Đào Chu Khải tuyên truyền, Dương Tự Thành tổ chức, Trần Thụy Nam tức Vũ Ngọc Liên kinh tài. Tân Đạo bộ thuê một ngôi nhà lớn ở Công An hạng, tầng lầu làm trụ sở Đảng bộ, tầng dưới thiết lập công xưởng để dung nạp một số công nhân đảng viên bị công ty hỏa xa Vân Nam sa thải, xưởng chuyên môn chế tạo sườn sắt, cửa sắt, v.v..

 Nguyễn Thế Nghiệp được tin Vũ Văn Giản có mặt ở Côn Minh, liền từ Mông Tự trở về. Hoàng Vân Nội đưa ra đề nghị chuyển một bộ phận đảng viên sang Miến Điện lập đồn điền, tính cách vĩnh cửu. Vì nơi ấy không những sinh hoạt đã dễ dàng, hơn nữa lại là xứ cai trị của người Anh, được Quốc Tế công pháp che chở, sẽ tránh được nạn khủng bố của chính phủ Vân Nam, mỗi khi gặp khó khăn trên trường ngoại giao với nước Pháp, lại đem những người cách mạng Việt Nam mang ra làm vật đổi chác. Đồn điền ở Miến Điện sẽ là nơi tập hợp những anh em cách mạng từ trong nước trốn thoát ra Hải Ngoại.

 Đề nghị ấy được chấp thuận. Nguyễn Thế Nghiệp được cử làm trưởng phái đoàn, Hoàng Vân Nội ngoại giao cùng với 14 đồng chí lao động, trong số có 2 nữ đồng chí là chị Nguyễn Thị Nhất biệt hiệu Mỹ Nương, Lê Thị Thăng (3) và 2 thiếu nữ là Liên và Thảo. Phái đoàn lên đường sang Miến Điện vào ngày 15 tháng 9 năm 1930.

 Sau khi phái đoàn Nguyễn Thế Nghiệp rời khỏi Côn Minh được ít ngày, Lãnh sự Pháp tại Côn Minh lại dò biết được mọi hoạt động của VNQDĐ-VNĐNĐB bèn lo ngoại giao hối lộ với chủ tịch Long Vân, vu cáo là có một số Cộng Sản Việt Nam thuê nhà ở Công An hạng, bí mật chế tạo khí giới cung cấp cho Ngô Học Hiển và Lý Thiếu Trung để chống chính phủ Vân Nam; và còn là nơi chứa chấp những phần tử chuyên đi ăn cướp giết người, v.v…

Long Vân ra lệnh cho Cảnh sát Công An đến vây khám trụ sở Đạo bộ vào hồi 1 giờ sáng ngày 24 tháng 10 năm 1930, bắt Vũ Hồng Khanh cùng 24 người gồm cả đàn ông đàn bà, tịch thu hết mọi tài liệu cùng ấn tín, v.v…

Trong khi thẩm vấn, mọi người đều khai là làm nghề cách mạng và là đảng viên của VNQDĐ. Sau nhờ có ngoại giao sứ Vân Nam là Trương Duy Hàn, một nhà Cách Mạng chân chính đặt bàn giấy ngay tại Công An cục, xét đủ bằng chứng quả thật là đảng viên VNQDĐ nên hết sức bênh vực và phản kháng với Long Vân. Hơn nữa, lại nhờ được Tỉnh Đảng bộ Trung Quốc Quốc Dân Đảng can thiệp, khiến Long Vân không thể nuốt trôi số vàng của Lãnh sự Pháp, bắt buộc phải thả hết. Tuy vậy cũng bị giam giữ mất ngót hai tháng trời.

Sau khi được thả tự do, trụ sở Đạo bộ được thuyên đến đường Hưng Nhân, công khai hoạt động, phát triển Đảng viên một cách đại quy mô, dọc theo thiết lộ suốt từ Hà Khẩu, nơi tiếp biên giới Việt-Hoa. Cách ít lâu, vì nhu cầu Đảng vụ, trụ sở Đạo bộ lại chuyển đến đường Bắc Môn; trụ sở cũ được dùng làm nơi cư trú riêng cho các cán bộ. 

Thời kỳ này lại có một số Đảng viên từ trong nước trốn thoát sang Côn Minh là Trần Ngọc Tuân tức giáo Tuân (4), Bùi Văn Hạch tức giáo Hạch (5), Lê Tùng Sơn (6), Vũ Tiến Lữ (7), Hoàng Quốc Chính và Trúc Lâm. 

Đã có một số cán bộ nòng cốt, VNQDĐ-VNĐNĐB phát triển liên lạc với Tỉnh Đảng bộ Trung Quốc Quốc Dân Đảng, mở chiến dịch tuyên truyền sâu rộng đến cả các tầng lớp Kiều bào ở Vân Nam: công chức, Sen Đầm, bồi bếp, v.v… khiến họ không phải lấy thẻ tùy thân và đóng sưu cho tòa Lãnh sự Pháp nữa! Đồng thời còn thủ tiêu một số người chuyên môn làm thám tử sát hại cách mạng Việt Nam từ trước tới nay.

Để đào tạo nhân tài, VNQDĐ-VNĐNĐB đưa một số thanh niên đảng viên vào Giảng Võ Đường tức Quân Quan Học Hiệu ở Côn Minh, sau sáu tháng tốt nghiệp được đổi sang làm phân hiệu thứ 5 của trường Hoàng Phố tức Trung Ương Lục Quân, Vân Nam đệ ngũ phân hiệu. Đồng thời lại tuyển một số đảng viên vào tập sự tại Binh Công Xưởng Côn Minh do Lê Phú Hiệp làm giám đốc. Nhân đà phát triển mạnh mẽ, VNQDĐ-VNĐNĐB đặc phái một số cán bộ đi tổ chức công tác trạm để hoạt động tại các biên khu:

 – Mường Là, Đổng Trạm hoạt động vào Phong Thổ, Lai Châu.

 – Lữ Tống Hà hoạt động vào Mường Hum.

 – Giang Thành (Mường Lê) hoạt động vào Phong Sa Ly.

 – Bảo Sơn (Nạm Hua) là một trạm liên lạc quan trọng giữa Mường Là với Đạo bộ Côn Minh và Hà Khẩu.

Các trạm này tồn tại cho mãi đến sau ngày kháng Pháp ở Phong Thổ hồi năm 1947-1948. 

MỐI THÙ TRUYỀN KIẾP: VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG – VÂN NAM ĐỆ NHẤT ĐẠO BỘ LẠI BỊ THỰC DÂN MƯU HẠI  

Ngày mồng 2 tháng 11 năm 1930, phái đoàn Nguyễn Thế Nghiệp đặt chân lên đất Diến Điện, nhưng không đạt được theo dự định, nên ngày 28 tháng 11 năm ấy, Nguyễn Thế Nghiệp lại từ giã đất Diến trở về Côn Minh, giữ công tác ngoại vụ bộ VNĐNĐB. Còn Hoàng Vân Nội cũng từ biệt đất Diến vào ngày 19-8-1931 trở về hoạt động tại Quảng Châu. 

Thanh thế và lực lượng tại tỉnh Vân Nam lúc bấy giờ thật mãnh mẽ vô cùng, khiến chính quyền Pháp tại Đông Dương hết sức lưu tâm chú ý.

Một cơ hội thuận tiện đã tới với Pháp, ấy là vụ VNQDĐ-VNĐNĐB đã thủ tiêu một đảng viên bị kết về tội phản Đảng là Nguyễn Kim Ngữ, đem xác đến đặt gần nơi Lãnh Sự quán Pháp ở Côn Minh để cảnh cáo thực dân và bè lũ. Nguyên nhân vụ án ấy như sau:

Nguyễn Kim Ngữ là con trai Lý Ngôn, là một nhà chuyên buôn bán nha phiến rất lớn ở Lao Kai, có chi điếm ở Hà Khẩu nơi địa đầu Trung Hoa, tiếp giáp biên giới với Việt Nam. Đầu năm 1928, VNQDĐ tổ chức đến địa hạt tỉnh Lao Kai, Nguyễn Kim Ngữ gia nhập Chi bộ đầu tiên. Nhận thấy là người có năng lực hoạt động, nên được bầu làm Chi bộ trưởng, tổ chức lan đến các châu; tổng số lên tới 9 chi bộ vào đầu năm 1929.

Đầu năm 1929, xảy ra vụ án Bazin, một đảng viên thuộc Chi bộ Lao Kai bị khai trừ ra khỏi đảng là Nông Quốc Độ, ra đầu thú mật thám Pháp. Chi bộ Nguyễn Kim Ngữ gồm 9 người bị bắt hết. Hội Đồng Đề Hình tha 7 người, còn hai người là Nguyễn Kim Ngữ và Vũ Đức Hiếu đưa ra xử phiên công khai, kết án mỗi người là 2 năm tù treo.

Cuối năm 1929, Nguyễn Thế Nghiệp được Brides thả ra, liền lên Lao Kai liên lạc với Nguyễn Kim Ngữ, rồi Ngữ đưa Nghiệp lên Côn Minh hoạt động tổ chức Đảng. Ít lâu sau vì thấy đời sống chật vật quá, Ngữ bỏ về Lao Kai, sống cuộc đời sung túc với gia đình.

Lãnh Sự Pháp tại Côn Minh thông báo cho Công Sứ tỉnh Lao Kai biết rõ mọi chi tiết. Công Sứ Lao Kai liền ra lệnh cho lùng bắt hết những chuyến thuốc phiện hàng 100 thùng sắt tây mà gia đình Nguyễn Kim Ngữ vận tải từ Vân Nam qua Lao Kai, làm nền kinh tế của gia đình Nguyễn Kim Ngữ trở nên khủng hoảng trầm trọng.

Biết rõ như vậy, Công Sứ Lao Kai cho triệu Nguyễn Kim Ngữ đến tư dinh. Kết quả hai bên thỏa thuận với điều kiện: Pháp bằng lòng để cho gia đình Nguyễn Kim Ngữ được tự do vận chuyển thuốc phiện qua đường Lao Kai; còn Nguyễn Kim Ngữ thì nhận làm tay sai cho Pháp, chịu trách nhiệm phá vỡ tổ chức VNQDĐ ở Vân Nam.

Điều kiện xong xuôi, Nguyễn Kim Ngữ trở lên Côn Minh gặp Ban Chấp hành Đạo bộ, đưa ra ý kiến là Đạo bộ cần phải hoạt động mạnh mẽ hơn nữa! Và xin tham gia công tác Đảng, với lý do hiện nay đã có hoàn cảnh thoát ly gia đình. Dĩ nhiên là các đồng chí của Nguyễn Kim Ngữ rất tán thành, và cũng từ đấy Nguyễn Kim Ngữ ở luôn tại trụ sở với cán bộ đảng viên công nhân ở đường Hưng Nhân, Nguyễn Kim Ngữ từ đấy tìm đủ cách phá hoại, gây chia rẽ trong cấp lãnh đạo, để nghi ngờ tàn sát lẫn nhau.

Xét thấy tình trạng khả nghi, ban đặc vụ Đạo bộ ra lệnh theo dõi, bắt được quả tang liên lạc với Lãnh Sự quán Pháp. Thu thập được đầy đủ chứng cớ, tài liệu xác thực, là Nguyễn Kim Ngữ phản Đảng. Ban Chấp hành Đạo bộ họp hội nghị kỷ luật khẩn cấp, quyết nghị xử tử Nguyễn Kim Ngữ. Bản án ấy đã thi hành vào ngày 21 tháng 5 năm 1931 tại ngay trong trụ sở đường Hưng Nhân. Xác Nguyễn Kim Ngữ được đem đặt gần nơi Lãnh Sự quán Pháp.

Lãnh Sự Pháp cho chụp hình thi thể Nguyễn Kim Ngữ, rồi kháng nghị với chính phủ Vân Nam, yêu cầu trừng trị bọn sát nhân để bảo vệ an ninh trật tự. Nhưng vì không có nguyên cáo, nên chủ tịch Long Vân cũng làm ngơ không xét đến. Lãnh Sự Pháp một mặt phái tên Tầu lai họ Quách, tên này trước làm kiểm soát viên (controleur) cho công ty hỏa xa Vân Nam, sau được Lãnh sự Pháp thu dụng làm gián điệp, chuyên về dọ thám những hoạt động của các nhà cách mạng Việt Nam trên đất Trung Hoa. Họ Quách nói tiếng Việt rất sõi, giả mạo là nhà cách mạng Trung Hoa, len lỏi trong hàng ngũ cách mạng lưu vong Việt Nam từ lâu. Nay được lệnh quan thầy bí mật giao thiệp với chủ tịch Long Vân, phân trần lợi hại, khuyên chủ tịch Long Vân nên bắt hết những người lãnh đạo VNQDĐ dẫn độ cho Pháp, chính phủ Pháp sẽ xin vi thiền  một số vàng hay phi cơ nếu chủ tịch muốn. Một mặt khác, phái họ Quách đến nhà Cả Mẫn, Mụ Phấy mưu toan cùng một vài tên phản đảng nữa, tìm Lý Ngôn là cha đẻ của Nguyễn Kim Ngữ xúi giục phát đơn khởi tố đích danh 12 người.

Ngày 25 tháng 5 năm 1931, chủ tịch Long Vân ra lệnh cho Công An cục đến vây khám trụ sở Đạo bộ, bắt Vũ Hồng Khanh, Đào Chu Khải, Nguyễn Thế Nghiệp, Lý Xuân Lâm, Phạm Văn Khoái, Điêu Đình Lục, Nguyễn Văn Bồn, Quý, Đức, Long, Hồi, Hiếu đưa đến giam tại Ngũ Hoa Sơn cạnh dinh chủ tịch Long Vân.

MỘT SỰ HY SINH CAO QUÝ NHẤT TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG 

Xét thấy một số cán bộ Đảng, những người lãnh đạo bị bắt giam, công tác Đảng bị ngưng trệ, cần phải cứu vãn ngay tình thế để 12 đồng chí được trở về tự do hoạt động. Một lão đồng chí là Dương Tự Thành thân đến Công An cục tự thú nhận chính mình mới là thủ phạm giết Nguyễn Kim Ngữ. Đến tới hai lần nhưng đều bị Công An cục mời về, không chịu thụ lý. Đã quyết tâm, họ Dương lại thân đến lần thứ ba, khăng khăng đòi nhận chính thực mình mới là thủ phạm. Lần này Công An cục mới chịu lấy lời cung khai, và ra lệnh giam họ Dương vào cùng với 12 đồng chí của ông, thành con số “13”.

Lãnh Sự Pháp giao thiệp yên cầu chủ tịch Long Vân: nếu không thể dẫn độ được, xin xử tử Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Thế Nghiệp chiếu theo hình luật Trung Hoa “Sát Nhân Giả Tử”.

Do sự can thiệp của TQQDĐ Tỉnh Đảng bộ Vân Nam, chủ tịch Long Vân không dám làm theo ý của Lãnh Sự Pháp, ông ra lệnh cho một tiểu đội lính Trung Hoa vận binh phục trắng, súng ống chỉnh tề, vào ngục thất Ngũ Hoa Sơn dẫn Dương Tự Thành (8) ra Chợ Con Côn Minh làm lễ chào, rồi bắn chết.

Sau khi đã xử tử Dương Tự Thành, Long Vân ra lệnh trả tự do cho Lý Xuân Lâm, Phạm Văn Khoái, Điêu Đình Lục, Nguyễn Văn Bồn, Quý, Long, Hồi. Còn Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Thế Nghiệp, Đào Chu Khải, Đức, Hiếu, bị đưa đến giam cầm tại ngục thất Mô Phạm.

Đám táng họ Dương được các đồng chí VNQDĐ Hải ngoại và kiều bào ở Côn Minh đi đưa đám rất đông và rất trọng thể, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, mọi người trong tổ chức Đảng cũng như Kiều bào ngoài tổ chức đều chít khăn trắng để tang đúng 3 tháng. Các đồng chí của họ Dương ở trong ngục thất Ngũ Hoa Sơn tổ chức lễ truy điệu, căng tấm băng đề “VỊ QUỐC VONG THÂN” và tuyệt thực ba ngày.

Tin Dương Tự Thành đã vì Đảng hy sinh tính mạng được loan truyền khắp nơi, các sinh viên trường Đại học Côn Minh cùng nhau tổ chức một buổi diễn kịch: một người đóng vai Lãnh Sự Pháp trao túi vàng cho chủ tịch Long Vân; Long Vân dắt tay từng người cách mạng Việt Nam trao cho Lãnh Sự Pháp… Vở kịch ấy đã gây một xúc cảm mãnh liệt đến các người Trung Hoa, khiến mọi người đều tỏ cảm tình nồng nhiệt đến với các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong.

Về công tác Đảng vụ, sau ngày 12 cán bộ bị chính quyền Vân Nam bắt giam, Ninh Hoài Nam biệt hiệu là Kỳ Anh gia nhập VNQDĐ ở Côn Minh từ năm 1931, tự đảm nhiệm chức Đạo bộ trưởng kiêm Ngoại vụ bộ, Ngô Đình Ninh Giám sát kiêm Đặc vụ, Nguyễn Văn Đước Tài chính, Nguyễn Sĩ Nghiêm Tuyên truyền.

Các đảng viên các Chi bộ địa phương nhận thấy Ninh Hoài Nam mọi hoạt động trái với đường lối chủ trương của Đảng, nổi lên công phẫn phản đối; lại nhân một số đảng viên mới được Long Vân trả tự do, các Chi bộ trưởng ở Côn Minh liền triệu tập toàn thể các Chi bộ trưởng ở các địa phương khai hội, báo cáo những hành động của nhóm Ninh Hoài Nam. Kết quả hội nghị quyết định bãi bỏ tổ chức của Ninh Hoài Nam, bầu lại ngay Ban Chấp hành Đạo bộ Lâm thời, để đối phó và duy trì Đảng vụ. Điêu Đình Lục được toàn thể hội nghị cử làm Đạo bộ trưởng Lâm thời và ngầm ra lệnh cho Đặc vụ thủ tiêu Ninh Hoài Nam, nhưng được họ Điêu che chở nên Ninh Hoài Nam đã trốn thoát trở về quốc nội.

===================

Ghi chú:

(1) Khi “Việt Nam Quang Phục Hội” ở Trung Hoa đương trong thời kỳ phồn thịnh, thì có hai đồng bào ta từ trong nước trốn sang là Đậu Cơ Quang và Nguyễn Hắc Sơn. Nhưng có biết đâu Hắc Sơn là người mà họ Đậu tin cậy lắm lại chính là một thám tử của Pháp; khiến sau này cả họ Đậu và một số đồng bào ta bị Pháp bắt giết hết. 

Nguyên vào khoảng đầu năm 1913, ông Đậu Cơ Quang từ Quảng Đông đi Vân Nam, ông mang theo nhiều tài liệu sách báo của Quang Phục Hội, rồi vận động tổ chức Kiều bào đủ các giới và cả người Hoa Kiều từ Hà Khẩu đến Côn Minh, trên 50 người gia nhập VNQPH. Lại được Lãnh Sự Đức Quốc ở Mông Tự giúp đỡ; đến Côn Minh, trên 50 người gia nhập VNQPH. Lại được Lãnh Sự Đức Quốc ở Mông Tự giúp đỡ; lại nhờ được lính gác đường xe lửa đường Hải Phòng-Vân Nam, ông Đậu lẻn về được Hà Nội ngầm kết liên với hai người Đội lính Khố Đỏ, ăn thề với nhau định làm một cuộc bạo động khởi nghĩa.

Người liên can vào vụ án của họ Đậu là một người Đội và những Việt kiều ở Vân Nam, duy có Lê Phú Hiệp trốn thoát. Còn từ Ký Lan trở xuống, hơn 50 người bị Pháp bắt hết đưa về chém ở Hà Khẩu vào ngày 2.12.1944, trong số có cả ông Đậu Cơ Quang, Hắc Sơn thì được thưởng hàm Bát Phẩm, còn thầy của Hắc Sơn là Nguyễn Hà Trường được bổ làm Tri huyện. (Theo tài liệu của cụ Phan Sào Nam trong cuốn “Tự Phán” nơi trang 165-166.)

 Trốn thoát lên Côn Minh, Lê Phú Hiệp đổi tên là Lê Thọ Nam được Tổng Đốc Vân Nam là Đường Kế Nghiên trọng dụng cử làm Giám đốc Binh Công Xưởng Côn Minh.

 Năm 1924, Lê Thọ Nam gặp Hoàng Vân Nội, cùng nhau lập nên tổ chức “Trung Việt Cách Mạng Liên Quân” với mục đích kết nạp những thanh niên Kiều bào ưu tú đưa vào học trường Giảng Võ, Côn Minh để huấn luyện thành những cán bộ quân dân tương lai về kháng Pháp.

Hoàng Vân Nội, sinh năm 1903 tại Hà Nội, được gia quyến đem sang Trung Hoa từ thuở còn thơ ấu. Xuất thân làm thư ký hãng dầu Shell ở Côn Minh. Tháng 7 năm 1933 bị thám tử bắt ở Hương Cảng đưa về Việt Nam.

(2) Nhà giam trong Cảnh sát cuộc Côn Minh thời ấy tường xung quanh đều đắp bằng đất. 

(3) Mỹ Nương là vợ Trần Ngọc Tuân tức là Trần Quốc Kính tức Đông A; còn Lê Thị Thăng là vợ anh Nguyễn Ngọc Sơn.

(4) Trần Ngọc Tuân sang Tầu đổi tên là Trần Quốc Kính biệt hiệu Đông A. Năm 1945, theo Việt Minh về nước đổi tên là Trần Xuân Sinh làm chủ bút tờ báo Cứu Quốc của VM.

(5) Bùi Văn Hạch sang Tầu đổi tên là Bùi Hữu Hiệp, 1945 chạy theo VM đổi tên là Bùi Đức Minh làm Tổng giám đốc Công An VM tại Hà Nội.

(6) Lê Tùng Sơn về nước năm 1945 cũng chạy theo VM

(7) Vũ Tiến Lữ sang Tầu đổi tên là Vũ Bằng Dực biệt hiệu Kính Tùng.

(8) Dương Tự Thành chính tên là Nguyễn Ngọc Cừ, nguyên quán tại làng Ban Hiếp, phủ Quốc Oai thuộc tỉnh Sơn Tây (Bắc Việt). Được Đảng trưởng Nguyễn Thái Học phái sang Trung Quốc từ cuối năm 1929, để liên lạc với Nguyễn Thế Nghiệp và giao thiệp mua một số khí giới, công việc giao thiệp mua bán chưa xong thì ông được tin cuộc Tổng Khởi Nghĩa đã bị thất bại, nên ông quyết ở lại Vân Nam, đổi tên là Dương Tự Thành.

[Bấm Vào Đọc Bài Trước]

[Bấm Vào Đọc Chương Kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (13)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Hai (1930-1940) / Chương I: “HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG LƯU VONG(phần 2)

THIÊN THỨ HAI (1930-1940)

CHƯƠNG 1:  HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG LƯU VONG (phần 2)

MỐI THÙ TRUYỀN KIẾP VẪN TIẾP DIỄN  

Qua đầu năm 1933, VNQDĐ-VNĐNĐB triệu tập Đại Biểu Đại Hội tuyển cử tại Côn Minh, để bầu Ban Chấp hành Đạo bộ chính thức. Kết quả Lê Tùng Anh tức Cần được bầu làm Đạo bộ trưởng, Vũ Tiến Lữ tức Vũ Bằng Rực Ngoại vụ bộ, Trần Quốc Kính tức Đông A Nội vụ, Triệu Việt Hưng Trinh sát kiêm Giám sát, Đặng Quốc Phong Tuyên truyền.

Bắt tay vào công tác, Vũ Bằng Rực đi thị sát các Chi bộ, khi đến ga hỏa xa La Ha Ti, Lãnh Sự Pháp được mật báo, lập tức phái Đại Biểu đến giao thiệp với tướng cướp họ Vạn ở địa phương La Ha Ti nhờ bắt hộ Vũ Bằng Rực.  Nếu việc thành tựu sẽ xin tặng họ Vạn số bạc 20.000 đồng Đông Dương.

Nguyên quanh vùng La Ha Ti có một tên tướng giặc họ Vạn, uy thế rất lớn, hùng cứ một phương, dưới trướng có hàng vạn người, quân lính chính phủ đánh dẹp mãi cũng không được. Nhưng họ Vạn lại rất hào sảng nghĩa hiệp, đã không những khước từ món tiền hối lộ của Lãnh Sự Pháp, lại còn phái người đưa tặng Vũ Bằng Rực một số bạc là 200 đồng lộ phí, và khuyên nên trở lại ngay Côn Minh.

Vũ Bằng Rực đương sửa soạn ra đi, thì tại La Ha Ti lại xảy ra vụ ám sát tên cai coi cầu xe lửa của công ty hỏa xa Vân Nam. Lãnh Sự Pháp liền phao tin chính Vũ Bằng Rực là thủ phạm, để lấy cớ bắt cho dễ. Rời La Ha Ti, Vũ Bằng Rực trở về Côn Minh, Lãnh Sự Pháp đánh điện tín về ga A Mi Châu (Ami Théou) cho Sen Đầm Pháp ra đón bắt, định lập ngay một chuyến xe lửa riêng đưa Vũ Bằng Rực thẳng về Hà Nội.

Các đồng chí của họ Vũ ở A Mi Châu hay tin, lập tức đánh điện tín lên Vân Nam Đạo bộ và Tỉnh Đảng bộ TQQDĐ ở Côn Minh cầu cứu. Tỉnh Đảng bộ TQQDĐ liền ra lệnh cho Huyện Tri Sự ở A Mi Châu phải giữ Vũ Bằng Rực lại. Đồng thời chủ tịch Long Vân cũng gửi công điện xuống đòi Vũ Bằng Rực lên Côn Minh ngay lập tức.

Ngày hôm sau, Vũ Bằng Rực đáp chuyến xe lửa bất thường trở về Côn Minh. Lãnh sự Pháp bí mật giao thiệp hối lộ với ngoại giao sứ Vân Nam. Ngoại giao sứ phái lính Trung Hoa ra ga xe lửa Côn Minh hợp với Sen Đầm Pháp đón bắt Vũ Bằng Rực. Không ngờ Nghĩa Dũng Quân (là lính riêng của Tỉnh Đảng bộ TQQDĐ) hợp cùng các đảng viên VNQDĐ đã bố trí phục kích suốt từ con đường trước cửa ga Côn Minh tới trụ sở Đảng bộ dài ngót 2 cây số.

Khi Ngoại giao sứ cho lính dẫn Vũ Bằng Rực ra khỏi cửa ga, Nghĩa Dũng Quân liền tiến đến bắt phải thả ngay Vũ Bằng Rực, nếu không chịu sẽ nổ súng. Ngoại giao sứ trả lời cương quyết không chịu, nếu Nghĩa Dũng Quân nổ súng, thì Ngoại giao sứ sẽ cho bắn chết ngay Vũ Bằng Rực. Không chần chờ! Nghĩa Dũng Quân nổ súng liền, quân lính chính phủ cùng Sen Đầm Pháp vội vàng xô nhau bỏ chạy. Hàng ngàn người Trung Hoa qua đường cũng ùa theo đuổi đánh những người Pháp qua lại khi ấy, gây nên một cuộc náo loạn. Vũ Bằng Rực được Nghĩa Dũng Quân bảo vệ đưa về tạm trú một thời gian trong trụ sở Tỉnh Đảnh bộ TQQDĐ.

PHẠM VĂN KHOÁI MỘT NGƯỜI ANH HÙNG DÂN TỘC 

Để chuẩn bị cho một cuộc quy hồi cố hương làm tròn sứ mạng cứu quốc, VNQDĐ-VNĐNĐB bí mật thiết lập một xưởng chuyên môn chế tạo võ khí tại một căn nhà thuộc hẻm Tân Gia Nghĩa (Trù Trư Hãng) thành phố Côn Minh, do một lão đồng chí phụ trách là Phạm Văn Khoái.

Vì sơ ý trong việc pha thuốc chế võ khí, một tiếng nổ dữ dội phát ra, làm đổ sụp căn nhà và còn rung chuyển cả một dãy phố. Phạm Văn Khoái tuy lánh xa được, nhưng cũng bị cháy xém cả mặt mày và bị hư đôi mắt. Các đồng chí của ông vội vực đưa ông vào điều trị tại Quân Y viện.

Lãnh Sự Pháp được mật báo, bèn giao thiệp hối lộ Công An cuộc Côn Minh rồi thừa đêm khuya thanh vắng, phái thám tử lén vào Quân Y viện cướp Phạm Văn Khoái bịt mắt đưa thẳng ra ga xe lửa Côn Minh, có Đặc vụ Trung Hoa hộ tống.

Trên toa xe lửa, hai chân Phạm Văn Khoái bị xích chặt vào chân ghế ngồi. Đợi xe chạy đến ga A Mi Châu, thừa khi Sen Đầm Pháp không lưu ý, ông Khoái liền rút lưỡi dao bào được giấu kín trong người rạch bụng tự sát.  Nhưng không may! Sen Đầm Pháp hay kịp, vội chạy lại ngăn cản, xích chặt hai tay ra phía sau lưng, đưa xuống ga A Mi Châu, dẫn vào bệnh viện Bác sĩ Sình, người Trung Hoa, nhờ băng bó vết thương, rồi lại bí mật đưa lên xe lửa giải thẳng về Hà Nội.

Chính quyền thực dân đưa vào bệnh viện Phủ Doãn điều trị, phái lính canh gác suốt ngày đêm, đợi khi bình phục sẽ khai thác tài liệu.

Là một lão thành cách mạng, Phạm Văn Khoái không thể nào để cho thực dân khinh khi và hành hạ! Nên đã thừa khi canh khuya, lính gác cũng như bệnh nhân đều ngủ kỹ, ông liền lấy vỏ chai đựng sữa để trên mặt bàn đầu giường nằm, khẽ đập ra lấy mảnh rạch bụng lần thứ hai, dứt ruột gan kéo ra đầy giường nằm; kết liễu cuộc đời của một nhà cách mạng chân chính Phạm Văn Khoái.

Sau vụ bắt cóc Phạm Văn Khoái được ít ngày, Lãnh Sự Pháp tại Côn Minh lại cho bắt cóc 7 đảng viên VNQDĐ ở ga A Mi Châu nhốt chung vào một cái thùng lớn đưa lên va-gông đen (tức là hạng va-gông chở hàng đóng kín cửa toa khóa kỹ) định đưa thẳng về Hà Nội. 

Được tin cấp báo, Chi bộ địa phương phái một đảng viên bí mật nằm dưới gầm toa xe lửa chờ cơ hội cứu đồng chí. Một mặt đánh điện tín lên Đạo bộ yêu cầu can thiệp với Ngoại giao sứ Trung Hoa, đồng thời lại ngoại giao với các cơ quan chính quyền địa phương phái nhân viên hợp cùng các đồng chí võ trang tức tốc tới ga Hà Khẩu (Hồ Kiều) phá cửa va-gông xe lửa, cứu thoát được 7 đồng chí. Người phụ trách chỉ huy vụ này là lão đồng chí Lê Tự Cường, Chi bộ trưởng Chi bộ Hà Khẩu. 

VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG ƯƠNG CHẤP HÀNH ỦY VIÊN HỘI HẢI NGOẠI BIÊN SỰ XỨ 

1 

Năm 1930, tại Quảng Châu có tổ chức “Việt Nam Quốc Dân Cách Mạng Đảng” do các ông Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Trần Bội Long, Đặng Sư Mạc, Lệnh Trạch Dân, Vi Chính Nam tức Vi Đăng Tường và Tư Thượng Mai lãnh đạo. Nhờ có sự viện trợ mỗi tháng 200 Hoa viên của TQQDĐ nhưng không có sự hoạt động nào đáng kể!

Vào khoảng tháng 2 năm 1932, nội bộ bỗng phát sinh lục đục, Đào Ngọc Tấn sai Đào Văn Cứu ám sát Tư Thượng Mai, bị nhà chức trách địa phương can thiệp, tổ chức VNQDCMĐ tan rã, mỗi người đi mỗi nơi.

Đến tháng 10 năm 1932, Lệnh Trạch Dân cùng Đặng Sư Mạc, Vi Chính Nam, Trần Bội Long, Ngô Đình Ninh, Hoàng Vân Nội tập hợp nhau lại, cải tổ sang “Hải Ngoại Tổng Đảng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng”. Lệnh Trạch Dân được cử làm Tổng lý, Đặng Sư Mạc (9) Bí thư, Vi Chính Nam Tài chính, Ngô Đình Ninh Tuyên truyền, Trần Bội Long Tổ chức, Hoàng Vân Nội Ngoại giao.

Nhân ngày Đại Hội, ban phụ trách tổ chức một đêm kịch giúp vui. Lợi cơ hội ấy, Lãnh Sự Pháp đề kháng với nhà chức trách địa phương Trung Hoa, vu khống cho VNQDĐ mưu tổ chức quân đội để chờ thời đánh lại Pháp. 

Pháp-Nhật giao thiệp, có lệnh trục xuất khỏi đảo Phù Tang, Đặng Sư Mạc trở lại đất Trung Quốc. Mỗi khi túng thiếu, họ Đặng phải đem vật kỷ niệm của Thiên Hoàng đi cầm cố, người Nhật tranh nhau cầm bất cứ bằng giá nào! Tỏ ý muốn được giữ mãi chiếc đồng hồ ấy. Nhưng họ Đặng có bao giờ bỏ, mà người Nhật cũng không bao giờ chịu lấy lãi của họ Đặng.

 Đặng Sư Mạc gia nhập quân đội Trung Quốc, làm đến chức Điền Quân Tham mưu trưởng. Văn đã hay chữ viết lại cực tốt, nên được giới trí thức Trung Quốc rất kính mến. 

Chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, thành phố Quảng Châu bị oanh tạc tơi bời, Đặng Sư Mạc ở lại Quảng Châu, bị hơi bom làm loạn thần kinh, đâm phát điên, rồi một buổi tối trời, cụ nhảy xuống Châu Giang tự tử. 

 Sáng ngày hôm sau, nhà chức trách Trung Hoa hạ lệnh đình chỉ mọi hoạt động, thu ấn tín, và cho cấp lãnh đạo Đảng bộ biết rằng: Họ chỉ bằng lòng giúp đỡ trong sự hoạt động bí mật, ra công khai như vậy sẽ có hại cho tình bang giao Pháp-Hoa. Thế là đại cuộc bị ngăn trở, tổ chức bắt buộc phải giải tán.

Sau cơn khủng hoảng tại Quảng Châu, sự hoạt động rất khó khăn, vì lúc nào cũng có bọn tay sai Đế Quốc quấy phá xung quanh.

 Tháng 12 năm 1932, một hội nghị các Đại Biểu dân tộc nhược tiểu ở Á Đông do Á Châu Văn Hóa Hiệp Hội tổ chức tại Nam Kinh. Ngoài Đại Biểu Việt Nam được mời là Vi Chính Nam, còn có mặt Đại Biểu Trung Hoa, Miến Điện, Phi Luật Tân, Ấn Độ, Triều Tiên, v.v…

Vi Chính Nam nhận thấy muốn tránh sự phiền phức ở Quảng Châu, nên gây cơ sở ở Nam Kinh, là nơi chưa có sự can thiệp của thực dân Pháp. Vi Chính Nam bắt đầu tiếp xúc với Trung ương Đảng bộ TQQDĐ. Cách ít ngày sau Lệnh Trạch Dân (10) cũng đến Nam Kinh và bắt đầu lập trụ sở.

Tháng Giêng năm 1933, Đảng bộ tại Nam Kinh tiếp nhận được công văn của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chính thức thừa nhận “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG” là một đảng hợp pháp, được tự do hoạt động trên toàn lãnh thổ Trung Hoa và được phép đặt trụ sở ở Nam Kinh.

Sau khi được chính phủ Trung Hoa chính thức thừa nhận, Vi Chính Nam phái liên lạc đi Côn Minh mời cấp lãnh đạo VNQDĐ tại đấy tới Nam Kinh khai hội, để thành lập một cơ quan tối cao duy nhất ở Hải Ngoại.

Nhưng tại Côn Minh, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Thế Nghiệp, Đào Chu Khải, Đức, Hiếu vẫn còn bị Long Vân giam cầm trong ngục thất.

Tháng 8 năm 1933, Vũ Hồng Khanh thông tin ra ngoài cho các đồng chí của ông tổ chức một cuộc biểu tình phản kháng chính phủ địa phương Vân Nam, yêu cầu phóng thích 5 đồng chí của họ. Cuộc biểu tình ấy được rất đông Kiều bào tham dự trước dinh chủ tịch Long Vân. Đồng thời trong ngục thất Vũ Hồng Khanh cùng 4 đồng chí của ông cũng bắt đầu tuyệt thực để phản kháng.

Tỉnh Đảng bộ TQQDĐ cũng hết sức can thiệp; mặt khác cuộc biểu tình ở ngoài và vụ tuyệt thực ở trong vẫn kéo dài một cách quyết liệt hơn! Đến ngày thứ 8, bắt buộc Long Vân phải trả tự do cho cả 5 người; nhưng lại ra lệnh phải xuất cảnh ngay lập tức.

Nhân dịp Vũ Hồng Khanh quyết định đi Nam Kinh. Rời khỏi Côn Minh được vài ngày, Nguyễn Thế Nghiệp vì quá kiệt sức không đi bộ được, lén quay trở lại Côn Minh. Trên đường tiến đến Nam Kinh còn lại 3 người: Vũ Hồng Khanh, Trần Quốc Kính, Đào Chu Khải. (11)

Đến Nam Kinh, mọi người đều đồng ý tính ngay đến việc khai hội, để chính thức thành lập một cơ quan tối cao điều khiển các tổ chức ở Hải ngoại.

Hội nghị khai mạc, khi phát biểu ý kiến đã gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi, ý kiến xung đột mâu thuẫn nhau. Nhưng sau một cuộc dàn xếp, đã đi đến quyết nghị thành lập “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG ƯƠNG CHẤP HÀNH ỦY VIÊN HẢI NGOẠI BIỆN SỰ XỨ” trụ sở đặt tại Nam Kinh. Vân Nam Đệ Nhất Đạo bộ đổi ra “Vân Nam Tổng Chi Bộ” trực thuộc Biện Sự Xứ. Các nơi khác: Quảng Tây, Quảng Đông, Đông Hưng… cũng chiếu theo nguyên tắc ấy thi hành. Quyết nghị ấy còn ghi rằng “Hải Ngoại Biện Sự Xứ” phải tuyệt đối trung thành với Tổng Bộ ở trong nước.

“Hải Ngoại Biện Sự Xứ” cử 3 Thường vụ Ủy viên do Vi Chính Nam làm Chủ nhiệm. Sau cuộc hội nghị, Vũ Hồng Khanh cùng Trần Quốc Kính bỏ ra đi, xin vào học trường Bắc Dương Đại Học.

Qua năm sau, 1934, Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ Bằng Rực từ Côn Minh đến Nam Kinh. Biện Sự Xứ lại có sự thay đổi. Vũ Hồng Khanh được mời về giữ chức Chủ nhiệm, Vi Chính Nam cùng Nguyễn Thế Nghiệp được cử đi thị sát các Chi bộ ở các địa phương.

Sau khi đi thị sát trở về Nam Kinh, Nguyễn Thế Nghiệp đề nghị thuyên trụ sở Biện Sự Xứ đến Thượng Hải, để Vi Chính Nam ở lại Nam Kinh liên lạc với các nhà đương cuộc Trung Hoa; còn Vũ Hồng Khanh trở lại Vân Nam để chỉnh đốn lại Tổng Chi bộ sau khi bị khủng hoảng lần thứ hai.

Tại Thượng Hải, lại vấp phải sự phá hoại của tay sai thực dân Pháp cùng các phần tử dị đảng. Tháng 6 năm 1934, Nguyễn Thế Nghiệp bị Cảnh sát trong Tô giới Pháp bắt cóc. Vi Chính Nam sau khi hay tin, liền xuống Thượng Hải mở cuộc điều tra, rồi thuyên trụ sở Biện Sự Xứ về Nam Kinh để dễ bề hoạt động.

TỔ CHỨC “VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI” (VIỆT MINH) TẠI NAM KINH

 

Cụ Nguyễn Hải Thần (nhà cách mạng Việt Nam)

Sau khi chỉnh đốn xong mọi việc, Vũ Hồng Khanh lại từ Côn Minh trở lại Nam Kinh. Được ít ngày, cụ Nguyễn Hải Thần cùng Hồ Học Lãm thân đến trụ sở VNQDĐ đề nghị tập hợp hết thẩy anh em cách mạng Hải ngoại lại, thành một tổ chức duy nhất để dễ bề hoạt động. Được các đồng chí VNQDĐ ở Nam Kinh rất tán thành vì đó là chủ trương của VNQDĐ đã hoạch định từ năm 1928.

Thánh 8 năm 1934, hội nghị được khai diễn, ngoài các Đại Biểu VNQDĐ còn có các cụ Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm và các Đại Biểu được giới thiệu từ Xiêm sang, Quảng Tây tới, Tứ dân hợp đoàn từ trong nước mới qua, v.v…

Hội nghị tiếp tục thảo luận, cuối cùng đi tới quyết nghị thành lập tổ chức mới này là “VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI” (12). Ban Chấp Hành Trung ương gồm có: Vũ Hồng Khanh, Vi Chính Nam, Nghiêm Kế Tổ, Hồ Học Lãm, Nguyễn Văn Lai, Lý Quang Hoa, Trần Minh (13). Vi Chính Nam được cử làm Chủ nhiệm.

Phiên họp cuối cùng, một số Đại Biểu (không phải là Đại Biểu VNQDĐ) đưa ra đề nghị một điều rất hệ trọng, là nhờ Chủ nhiệm Vi Chính Nam gửi công văn đến Trung ương chính phủ Trung Hoa xin công nhận hợp pháp hóa tổ chức VNĐLĐMH và thủ tiêu danh hiệu VNQDĐ đã được chính phủ Trung Hoa thừa nhận bấy lâu. Họ Vi nhận lời, nhưng tạm xếp đó; để chờ xem những hành động của các bạn đồng minh mới sau này ra sao, rồi mới sẽ quyết định.

Bắt đầu hoạt động, VNĐLĐMH xuất bản hai tờ báo làm cơ quan tuyên truyền, viết bằng Việt ngữ và Hoa ngữ, lấy tên là “Việt Thanh”.

Đến cuối năm 1935, tổ chức VNĐLĐMH giải tán, vì bên anh em VNQDĐ xét thấy bạn đồng minh không thành thực, luôn luôn dùng thủ đoạn lợi dụng, tìm cách lấn quyền, muốn biến thành một tổ chức Đệ Tam Quốc Tế.

VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG BỘ HẢI NGOẠI CHẤP HÀNH ỦY VIÊN HỘI

Tổ chức VNĐLĐMH tan vỡ, Vũ Hồng Khanh cùng các đồng chí của ông trở lại Côn Minh hoạt động rất mạnh mẽ, Lãnh Sự Pháp dò biết hành tung, liền kháng nghị với nhà chức trách Vân Nam, vu khống cho họ Vũ trở lại hoạt động khủng bố người Pháp như những năm trước. Chủ tịch Long Vân ra lệnh bắt Vũ Hồng Khanh.

Biên Sự Xứ ở Nam Kinh hay tin, liền phái Đại Biểu đến Trung ương Đảng bộ TQQDĐ và Trung ương chính phủ biện bạch mọi lẽ yêu cầu can thiệp; đồng thời đánh điện tín và gửi công văn kháng nghị đến chủ tịch Long Vân.  Vũ Hồng Khanh được phóng thích, nhưng lại bắt buộc phải rời khỏi ngay địa giới tỉnh Vân Nam.

Vũ Hồng Khanh cùng một số cán bộ rời khỏi Vân Nam đến Quý Châu. Sau một thời gian quan sát tình hình, họ Vũ quyết định thuyên chuyển trụ sở Tổng Chi bộ Vân Nam đến Quý Châu để dễ bề hoạt động. Mọi việc đương tiến hành, thình lình họ Vũ lại bị nhà chức trách địa phương bắt giam tại huyện An Thịnh, vu cáo là gián điệp của Nhật Bản.

Thừa cơ hội vắng người lãnh đạo ở Côn Minh, đồ đệ Đệ Tam Quốc Tế tổ chức giải phóng quân do Việt Tử, Trịnh Đông Hải… tìm đủ mọi cách lũng đoạn tinh thần các đảng viên VNQDĐ để thu hút vào tổ chức của họ. Người nào không theo, họ tố cáo với nhà chức trách Vân Nam là gián điệp của Đế Quốc Nhật Bản, hoặc là những tên Cộng Sản khủng bố…

Các cán bộ VNQDĐ ở Quý Châu hay tin, lập tức trở về Côn Minh, mở cuộc điều tra. Một hội nghị Đại Biểu các Chi bộ địa phương được triệu tập họp khẩn cấp, bầu lại Ban Chấp hành Tổng Chi bộ Vân Nam, kết quả Lê Tự Cường, một lão đồng chí ở Chi bộ Hà Khẩu được bầu làm Tổng Chi bộ trưởng, các cán bộ được phái đi thị sát và giải thích cho các Chi bộ địa phương, đập tan âm mưu phản gián phá hoại của bè lũ Đệ Tam Quốc Tế (Giải Phóng Quân).

Tại Nam Kinh, Biện Sự Xứ hay tin Vũ Hồng Khanh lại bị bắt giam, liền phái Nghiêm Kế Tổ đến Quý Châu tiếp xúc với chủ nhiệm Tỉnh Đảng bộ TQQDĐ yêu cầu can thiệp, tức thời họ Vũ được trả tự do.

 Sau một thời gian lưu lại ở Quý Châu, Vũ Hồng Khanh cùng anh em trở lại Côn Minh. Nhận thấy tình hình bên nước nhà thời ấy sắp bị ảnh hưởng về chiến tranh Trung-Nhật, thời kỳ rất thuận tiện cho sự hoạt động của Đảng. Vũ Hồng Khanh cùng các đồng chí của ông trù liệu đặt trụ sở Trung ương ngay tại Côn Minh cho dễ bề hoạt động, đổi danh hiệu lại là “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG BỘ HẢI NGOẠI CHẤP HÀNH ỦY VIÊN HỘI”, do Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Lê Khang, Vũ Quang Phẩm và Nghiêm Kế Tổ trực tiếp điều khiển.

Sau khi chỉnh đốn xong mọi việc, Chu Bá Phượng được đặc phái về hoạt động ở trong nước; Nghiêm Kế Tổ được phái đi Trùng Khánh hoạt động ngoại giao với Trung ương chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và Trung ương Đảng bộ TQQDĐ.

 Đến Trùng Khánh, họ Nghiêm mới hay tin Vi Chính Nam mới qua đời tại huyện Bích Sơn, cách Trùng Khánh 60 cây số, bởi họ Vi nể lời người bạn Trung Hoa mời nhận chức Doanh trưởng quân đội trong chính phủ Trung Hoa bị dùng sức quá nhiều, lại vì tuổi già, thủy thổ bất phục, lâm bệnh mà mất.

 Vì có sự thay đổi danh hiệu Đảng, một lần nữa chính phủ Trung Hoa lại gửi công văn chính thức thừa nhận.

=======================

Ghi chú:

(9) Đặng Sư Mạc chính tên là Đặng Hữu Bằng, tục gọi Ấm Bằng, sau đổi tên là Đặng Quang Hồng, là con cụ Đặng Hữu Dương nguyên Án Sát Hà Nội và gọi Đặng Tử Mẫn bằng chú ruột, nguyên quán tại làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định. Đặng Sư Mạc xuất dương hồi 1906 tùng học tại trường Trấn Võ Nhật Bản đậu đầu kỳ thi tốt nghiệp, được Thiên Hoàng đặc biệt chú ý, xét hỏi lý lịch, nhà Vua rút chiếc đồng hồ đương đeo trong người ra tặng Đặng Sư Mạc, mặt sau đồng hồ có khắc chữ kỷ niệm của Thiên Hoàng.

(10) Đến Nam Kinh được ít lâu, Lệnh Trạch Dân vì sức yếu, không chịu nổi khí hậu quá rét, nên từ trần tại đấy.

(11) Đến Nam Kinh được ít ngày, Đào Chu Khải nhận thấy sự sinh sống quá cực khổ, bí mật bỏ xuống Thượng Hải xuất thú với Lãnh Sự Pháp, được đưa về nước.

(12) Tức là tên Việt Minh sau này.

(13) Nguyễn Văn Lai, Lý Quanq Hoa, Trần Minh là 3 cán bộ Cộng Sản Việt Nam mới được huấn luyện từ Moscow trở về.

[Bấm vào đọc bài trước]

[Bấm vào đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (14)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Hai (1930-1940) / Chương II: “VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI (VNCMĐMH)”

THIÊN THỨ HAI (1930-1940)

CHƯƠNG II:  VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI (VNCMĐMH)

Năm 1940, cuộc chiến tranh Trung-Nhật bước vào giai đoạn gay go kịch liệt. Ngày 23 tháng 9, quân đội Nhật Bản từ lãnh thổ Trung Hoa tiến vào Lạng Sơn, một tỉnh địa đầu của quốc gia Việt Nam.

 Một tổ chức cách mạng quốc gia Việt Nam là “Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội” do lãnh tụ Trần Phúc An, Trần Trung Lập, Hoàng Lương và Đoàn Kiểm Điểm (1) lãnh đạo, đảng viên gồm đủ thành phần: sĩ, nông, công, thương, binh hàng ngàn người, lợi dụng tình thế vào chiếm đóng tỉnh thành Lạng Sơn, được đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng.

Trần Phúc An chịu trách nhiệm phát động phong trào cách mạng giành độc lập từ Hà Nội vào tới miền Nam Việt Nam. Để che mắt Pháp quân, Trần Phúc An đeo lon cấp tướng quân đội Nhật Bản.

 Trần Trung Lập với sứ mạng Tổng chỉ huy mặt trận Cao Bắc Lạng với chiến thuật du kích chiến trường kỳ chống cả Pháp lẫn Nhật.

 Hoàng Lương với nhiệm vụ đặc phái viên chính trị.

Sau ngày Pháp đầu hàng Nhật Bản, quân đội Thiên Hoàng rút khỏi Lạng Sơn. Kịch chiến với Pháp quân suốt ba ngày ròng rã, vì kém khí giới, VNPQĐMH phải rút lui ra bưng biền kháng chiến.

Sau thời gian vài tháng chiến đấu chống Pháp, Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm, Vũ Chương cùng hàng trăm đồng chí bị Pháp bắt rồi sát hại tại thành Lạng Sơn. Còn Trần Phúc An cùng quân đội Nhật Bản rút khỏi Lạng Sơn về Hà Nội bị Nguyễn Tường Tam ra lệnh giết chết.

Hoàng Lương và Nguyễn Văn Phi lãnh đạo hơn ngàn đảng viên nam, nữ vượt biên giới sang Trung Hoa. Thừa cơ hội của kẻ bại trận lưu vong, Pháp tố cáo với nhà đương cuộc Trung Hoa là một bọn thổ phỉ Việt Nam; còn Việt Cộng thì tuyên truyền là thân Nhật, là gián điệp của Nhật Bản.

Vì các lẽ trên, Phục Quốc Quân (PQQ) phải nằm ở biên giới đến 6, 7 tháng trời để chờ cuộc điều tra của nhà cầm quyền Trung Hoa. Không làm cách gì hơn được, Hoàng Lương phải viết một bài tỏ bày hết sự thực gửi đăng trên các báo chí Trung Hoa; một mặt viết bức tâm thư gửi lên trình bày cùng Thống chế Tưởng Giới Thạch. Thống chế họ Tưởng liền phái mật vụ đến mở cuộc điều tra tại chỗ. Kết quả được công nhận VNPQĐMH là một tổ chức cách mạng Việt Nam. Tưởng Thống chế ra lệnh cho Trương Phát Khuê, Tư lệnh Đệ Tứ Chiến Khu, phải tập hợp ngay các đảng phái cách mạng Việt Nam lưu vong thành một tổ chức duy nhất trên lãnh thổ Trung Hoa để Chính phủ bảo trợ; chứ không thể viện trợ hoặc ủng hộ cho riêng một cá nhân hoặc một đoàn thể nào! Sự thực là để nhà cầm quyền Trung Hoa dễ bề kiểm soát trong khi Trung Hoa bị Nhật Bản xâm lăng.

Tư lệnh Trương Phát Khuê cho mời Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trương Trung Phụng, Trần Báo ủy thác nhiệm vụ soạn thảo chương trình thành lập tổ chức này. Ngoài ra còn có Hoàng Lương, Lý Quang Hoa… phụ trách việc tuyên truyền cổ động.

 Nhưng vì nội bộ bất hòa, xô xát lẫn nhau, rồi tan vỡ, mỗi người đi mỗi nơi.

 Thấy tình trạng lâm vào cảnh bế tắc, Chính phủ Trùng Khánh gửi điện văn sang Vân Nam mời Đại Biểu VNQDĐ sang phối hợp.

Đảng bộ VNQDĐ tại Côn Minh khai hội, quyết định cử một phái đoàn gồm có Vũ Hồng Khanh, Lê Khang, Tân Phấn Dũng, Đặng Lộc, Nguyễn Chí Minh, Phạm Huy Kỳ, Vũ Bằng Rực, Nguyễn Duy Quang, Nghiêm Kế Tổ.  Phái đoàn được chia làm hai toán tiến đến Liễu Châu (là một huyện trong tỉnh Quảng Tây).

 Sau cuộc diễn thuyết của Đại Biểu VNQDĐ, do Đệ Tứ Chiến Khu tổ chức, Trung tướng Lương Hoa Thịnh rất tán thành, mời VNQDĐ phụ trách thảo luận với các nhóm, đảng cách mạng Việt Nam để tổ chức thành một cơ cấu thống nhất cách mạng Việt Nam.

Suốt trong nửa tháng trời, Đại Biểu VNQDĐ thảo luận với các đoàn thể bạn, đồng quyết nghị thành lập một tổ chức lấy danh hiệu là “VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI”. Nhưng chưa chính thức, bị cản trở bởi vấn đề nhân sự, các nhóm tranh chấp lẫn nhau, đôi khi còn xô xát kịch liệt. Có một số người lại dựa vào thế lực Đệ Tứ Chiến Khu gây nên chuyện đổ vỡ vô cùng phức tạp. Phái đoàn VNQDĐ phải phái Đại Biểu lên Trùng Khánh, yêu cầu Quân sự Ủy viên hội ra lệnh đình chỉ ngay sự can thiệp vô lý của Đệ Tứ Chiến Khu do Trung Tướng Lương Hoa Thịnh đại diện Thống chế Tưởng Giới Thạch trong công cuộc chỉ đạo đoàn thể cách mạng Việt Nam. Vì thế Đệ Tứ Chiến Khu có sự bất bình với VNQDĐ về sau này.

Đến ngày mồng 10 tháng 10 năm 1942, hội nghị mới khai mạc được, tổ chức “VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI” được chính thức thành lập. Trụ sở đặt tại số 15 Ngữ Phong Cái, Liễu Châu; với thành phần Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương như sau:

 A. VÔ ĐẢNG PHÁI, 4 Đại Biểu: Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Trần Báo, Trương Trung Phụng.

 B. VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG, 2 Đại Biểu: Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ.

 C. VIỆT NAM PHỤC QUỐC ĐỒNG MINH HỘI, 4 Đại Biểu: Bồ Xuân Luật, Nguyễn Văn Phúc, Lê Duy Thịnh, Trần Đình Xuyên.

 D. VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI (VM), 1 Đại Biểu: Hồ Đức Thành.

 Hậu Bổ ủy viên: Lê Tùng Sơn, Nông Kính Dần…

 Nhân viên công tác trạm: Đặng Văn Ý, Vũ Kim Thành, Nguyễn Văn Giảng, Lê Khang, Nghiêm Xuân Quảng, Nguyễn Văn Huân, Lương Khâm Thành…

Với thành phần trên, VNCMĐMH tổ chức thành hai ngành hoạt động:

A. Trung ương Chấp hành Ủy viên hội: Trương Bội Công Biện Công Thính Chủ nhiệm…

B. Trung ương Chấp hành Giám sát Ủy viên hội: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ…

 Cụ Nguyễn Hải Thần không đồng ý cử Trương Bội Công làm Chủ nhiệm, nên tỏ ý phản đối, bỏ đi ra Khúc Giang.

Mặc dầu có sự xích mích ấy, Ban Chấp hành vẫn tiếp tục hoạt động, phân công nhau đi công tác các nơi: Tư lệnh Trương Phát Khuê cử Vũ Hồng Khanh đi Côn Minh lập Chi hội VNCMĐMH, Trần Báo đi Tĩnh Tây; Nghiêm Kế Tổ, Lê Khang, Nghiêm Xuân Quảng cùng đi Đông Hưng tổ chức công tác trạm; Nguyễn Văn Huân, Lương Khâm Thành phụ trách công tác trạm ở Trình Tây để liên lạc và thu lượm tin tức quốc nội.

 Một ngàn thanh niên chia làm 4 đại đội, trong số có một Trung đội phụ nữ được thu dụng vào học trường Võ Bị Hoàng Phố, khóa 41-44.

 Trương Bội Công giữ nhiệm vụ thường trực hội quán. Hội hoạt động được khoảng nửa năm, rồi bởi Trương Bội Công vốn là quân nhân, tính thẳng nhưng nóng nảy, khiến anh em thanh niên cho là độc tài, nổi lên phong trào phản kháng, cấm hẳn họ Trương không cho hoạt động gì nữa!

 Trương Trung Phụng, Nông Kính Dần cũng đều bất lực, chẳng còn biết dàn xếp cách nào, đành để cho Tổng Bộ lâm vào cảnh vô chủ. Cách ít lâu, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trần Báo tiếp tục trở về Liễu Châu cùng nhau tổ chức lại VNCMĐMH, Nguyễn Hải Thần được cử làm Chủ nhiệm thay thế Trương Bội Công. (2)

Trong khi ấy có tin Nguyễn Tường Tam bị nhà chức trách địa phương Trung Hoa bắt giam ở hang đá Liễu Châu.

Nguyên từ sau ngày quân đội Nhật Bản tiến vào Việt Nam, ĐVDCĐ bị Pháp khám phá và đàn áp, anh em ông Nguyễn Tường Tam trốn thoát sang Trung Hoa vào cuối năm 1942. Sang Trung Hoa, ông Tam đổi tên là Nguyễn Tường Dũng, gặp giữa lúc Trương Bội Công bị thanh niên đảng viên đả đảo. Nhà chức trách địa phương Trung Hoa tình nghi Nguyễn Tường Dũng là gián điệp của Nhật Bản được phái từ Quảng Châu tới, để phá hoại tổ chức VNCMĐMH. 

Vũ Hồng Khanh cùng Nghiêm Kế Tổ xin phép Trương Phát Khuê được phép vào hang đá thăm Nguyễn Tường Tam. Tư lệnh Trương Phát Khuê cho biết còn có một người cách mạng Việt Nam nữa cũng bị bắt giam, khai tên là Hồ Chí Minh. Hai họ Vũ, Nghiêm xin vào thăm luôn, nhưng với cái tên Hồ Chí Minh mới lạ quá, trong giới cách mạng Việt Nam lưu vong, chưa hề thấy ai nói đến cái tên ấy cả. Tình nghi là Nguyễn Ái Quốc, thì lại mới đây có tin từ quốc nội đưa sang, nói là Nguyễn Ái Quốc đã chết ở nơi biên khu rồi! Đến lượt cụ Nguyễn Hải Thần được mời vào nhận diện, vì cụ đã gặp mặt Nguyễn Ái Quốc một vài lần thật, nhưng nay vì tuổi già mắt đau nặng, nên cụ cũng không thể nhận ra là ai? Nhưng dầu sao thì cũng là người cách mạng Việt Nam, nên sau khi trở về Hội quán, hai họ Vũ, Nghiêm cũng đề nghị với Ban Chấp hành VNCMĐMH đứng ra can thiệp xin trả tự do cho Nguyễn Tường Tam, Hồ Chí Minh.

Sau ít ngày, Nguyễn Tường Tam, Hồ Chí Minh, kẻ trước người sau đều được trả tự do về ở hội quán VNCMĐMH. Nguyễn Tường Tam, Hồ Chí Minh, Đặng Nguyên Hùng được đặt vào hàng “Hậu Bổ Ủy Viên” trong tổ chức VNCMĐMH. Tóm lại, từ cụ già Nguyễn Hải Thần đến các nhân viên trong tổ chức (trừ Hồ Đức Thành) không một người nào biết rõ Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc cả. Chính Tư lệnh Trương Phát Khuê, một viên kiện tướng chống cộng một cách triệt để, phái mấy người Tàu thường xuyên vào hội quán thăm Hồ Chí Minh để dò xét tông tích, nhưng cũng chẳng biết gì hơn! Hồ Chí Minh đứng vào thành phần vô đảng phái, kê ghế bố nằm khèo ở góc phòng, đôi người bạn đồng hương đến thăm hỏi, ông trả lời hết sức khéo léo, không hề làm mất lòng ai, ông đóng vai trò hết sức lơ đãng và kiên nhẫn đợi thời cơ.

Thời cuộc biến chuyển mau lẹ, cuối năm 1943, VNCMĐMH phát động phong trào tuyên truyền cổ động cho tổ chức vào nội địa Việt Nam; đồng thời thiết lập thêm trạm giao thông liên lạc ở biên khu để thu lượm tin tức và tuyên truyền VNCMĐMH vào quốc nội.

Trước hội nghị, mọi yếu nhân các đảng phái quốc gia đều làm lơ, không biết lợi dụng cơ hội đó để mà phát triển cơ sở, lợi dụng thế Đồng Minh lãnh trách nhiệm, phái cán bộ về nội địa phối hợp với các đồng chí để hoạt động, mà mọi người đương mong đợi từ lâu.

Trước hội nghị, duy có ông Hồ Chí Minh giơ tay xin xung phong. Ông Hồ liền được cấp đầy đủ giấy tờ và công tác phí là 20 vạn Quốc tệ với 20 thanh niên cán bộ, do ông Hồ tự ý lựa chọn những phần tử để điều khiển, mà hầu hết là đảng viên VNPQĐMH.

Trước khi xuất phát, ông Hồ Chí Minh cùng đoàn cán bộ đều phải làm lễ phát thệ dưới lá cờ VNCMĐMH.  Nguyện trung thành với VNCMĐMH rồi dự một bữa tiệc linh đình trước khi lên đường ra biên khu.

Sau khi Hồ Chí Minh trở ra biên khu, Nguyễn Tường Tam cũng rời bỏ Liễu Châu trở lên Côn Minh liên kết với Hải ngoại bộ VNQDĐ.

Sư tử được thả về rừng, có tiền thêm cán bộ và lại nhiều khí giới, lại đứng vào thế cờ Đồng Minh, được Hoa Kỳ nhiệt liệt ủng hộ. Ông Hồ về lập chiến khu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, khoác bộ áo lãnh tụ VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI (VNĐLĐMH) tức là Việt Minh, chà đạp lại tổ chức VNCMĐMH. Phát động tuyên truyền cho VNĐLĐMH, thu hút quần chúng, những người dân Việt đã quá đau khổ và đã quá chán ngán cả Pháp lẫn Nhật và Triều Đình Huế, đã chạy theo Việt Minh, một đảng trá hình Quốc Gia.

Đến năm 1945, khi Việt Minh cướp được chính quyền, nhân tài số 1 của Hoa Kỳ là John Deway bị giết lầm tại Sài Gòn. Chính phủ VM tại Hà Nội cử phái đoàn đến phân ưu, thì Hoa Kỳ giả lờ chối phắt là họ không có ai tên ấy tại Sài Gòn cả.

Thời gian sau, biết rõ chủ tịch Hồ Chí Minh chính thực là Nguyễn Ái Quốc, Hoa Kỳ lại phái Harolld Issaac là người có ơn riêng đối với Nguyễn Ái Quốc đến Hà Nội để thuyết phục cho Hồ Chí Minh đừng có “sắp hàng” theo Nga, và Hoa Kỳ sẽ chấp nhận việc Cộng Sản Việt Nam tổ chức một “CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA DÂN TỘC”.

Tuy việc không thành, nhưng Hoa Kỳ chưa nản lòng. Đến năm 1949, hãy còn đặc phái William Bullitt qua Hà Nội, hầu kéo kháng chiến về phía tự do. Nhưng vì Mao Trạch Đông đã nắm trọn Hoa Lục, khiến cho Việt Minh Cộng Sản phải chạy theo luôn. Và từ đấy, Hoa Kỳ bắt đầu tham gia vào công cuộc chống Cộng tại Việt Nam cho đến bây giờ, qua các triều đại Pháp, Ngô Đình Diệm đến Đệ Nhị Cộng Hòa.

=========================

Chú Thích:

(1) Trần Phúc An tự Trần Hy Thánh, nguyên quán tại quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (Nam Việt). Xuất dương từ thời Đông Du, gia nhập quân đội Nhật Bản làm đến cấp Tướng.

 Trần Trung Lập nguyên quán tỉnh Bắc Giang.

 Đoàn Kiểm Điểm nguyên quán tại tỉnh Lạng Sơn, là cựu sinh viên trường Hoàng Phố.

 Hoàng Lương chính tên là Đỗ Văn Tuân, nguyên quán tại tỉnh Vĩnh Yên. 

(2) Thành phố Liễu Châu bị phi cơ Nhật Bản đến oanh tạc dữ dội, trụ sở VNCMĐMH bắt buộc phải di chuyển đến các địa phương an toàn khác. Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Trương Bội Công trên đường trở lại Côn Minh (Vân Nam) bị Việt Cộng giết chết.

[Bấm vào đây đọc bài trước]

[Bấm vào đọc bài kế tiếp]


Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (15)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Hai (1930-1940) / Chương III: “CỦNG CỐ NỘI BỘ PHÁT TRIỂN NGOẠI GIAO

THIÊN THỨ HAI (1930-1940)

CHƯƠNG III:  CỦNG CỐ NỘI BỘ PHÁT TRIỂN NGOẠI GIAO

Nhận thấy tình hình nội bộ của VNCMĐMH ngày thêm rối loạn. Vũ Hồng Khanh cùng Nghiêm Kế Tổ rút lui về Côn Minh, củng cố và phát triển đoàn thể VNQDĐ rồi cùng nhau đi Trùng Khánh để giải quyết mọi vấn đề khẩn yếu. Hai người lưu lại ở Trùng Khánh hơn một tháng, rồi trở lại Côn Minh khai hội, thảo ra một kế hoạch, tựu chung có hai điểm chính yếu:

 1. Đưa điện đài thu, phát thanh về đặt ở 3 phần tại quốc nội.

 2. Cử phái viên về mời một phái đoàn trong nước sang Côn Minh để thương nghị đại kế. 

Lê Khang (Bí danh Lê Ninh) một nhà hùng biện Việt Quốc năm 1945-1946 người dân có câu: “Việt Quốc Lê Ninh – Việt Minh Trần Văn Giàu” là hai nhà hùng biện lúc bấy giờ

Kế hoạch đã được hội nghị thông qua. Vũ Hồng Khanh đi Đông Hưng để thi hành kế sách. Lê Khang được cử bí mật về quốc nội để mời một phái đoàn. Vũ Quang Phẩm chịu trách nhiệm chuẩn bị cán bộ để cùng Nghiêm Kế Tổ đưa điện đài từ Trùng Khánh đến Đông Hưng để di chuyển về quốc nội; còn cách tổ chức yểm hộ và đặt cơ sở thì đã có một bức thư riêng trao cho Lê Khang thi hành. Làm xong nhiệm vụ ở Đông Hưng, Vũ Hồng Khanh trở về đảm nhiệm trọng trách ở Côn Minh. Nghiêm Kế Tổ đưa điện đài đến Đông Hưng được độ nửa tháng, còn đương thu xếp máy móc và lựa chọn phái viên gửi về nước, thì đột nhiên Đốc Sát Sứ Đông Hưng, một cơ quan thuộc Đệ Tứ Chiến Khu Trung Hoa ra lệnh bắt giam, vu cáo cho họ Nghiêm là đã liên lạc với người Anh làm trở ngại vấn đề nhập Việt của quân đội Trung Hoa.

Tóm lại, tất cả sự kiện trên xảy ra đều do Tiêu Văn chủ mưu để phá hoại VNQDĐ vì Vũ Hồng Khanh cùng Nghiêm Kế Tổ đã vạch trần bộ mặt thực và phản đối kịch liệt Tiêu Văn trong những ngày tổ chức VNCMĐMH ở Liễu Châu, rồi bỏ ra về Côn Minh hồi mấy tháng trước. Để trả thù, Tiêu Văn còn gửi báo cáo mật về Trùng Khánh, vu cáo Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, kẻ thì làm gián điệp cho Nhật, người thì làm gián điệp cho Anh. Yêu cầu cho phép nhà đương cuộc Vân Nam bắt Vũ Hồng Khanh trao lại cho Đệ Tứ Chiến Khu xét xử.

Giam giữ ở Đông Hưng ít ngày, Nghiêm Kế Tổ bị giải về giam ở ngục thất Liễu Châu. Tiêu Văn ra lệnh xiềng xích rất tàn nhẫn và định thủ tiêu luôn. Cách ít ngày sau, Vũ Quang Phẩm cũng bị bắt ở Đông Hưng giải về cùng giam ở Liễu Châu.

Nhờ có sự can thiệp của các đồng chí ở ngoài, Trung ương Đảng bộ TQQDĐ cũng cứu xét, được biết rõ âm mưu của Tiêu Văn và bè lũ là muốn thừa cơ giặc giã mà vu khống để ám hại; liền đánh điện tín bắt buộc phải phóng thích ngay Nghiêm Kế Tổ và Vũ Quang Phẩm.

Cuối năm 1944, nhận thấy tình hình quốc tế sắp có biến chuyển mạnh, Đảng bộ ở Côn Minh đặc phái một số cán bộ thanh niên đã được huấn luyện chia thành từng tổ, đi hoạt động tại các biên khu, và một số bí mật trở về và hoạt động ngay tại quốc nội. Công cuộc lo liệu thủ tục giấy tờ cho các đồng chí do Nghiêm Kế Tổ phụ trách tại Trùng Khánh.

Ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, được tin quân đội Nhật Bản đảo chính Pháp tại Đông Dương. Trước sự biến chuyển quan trọng ấy, Ủy ban Chấp hành Hải ngoại bộ liền thảo một bản tuyên ngôn đối với thời cuộc và một ý kiến thư gửi đến các Lãnh Sự trên lãnh thổ Trung Hoa.

HẢI NGOẠI BỘ VNQDĐ PHÁT TRIỂN LIÊN LẠC VỚI CÁC ĐẢNG CÁCH MẠNG TRONG NƯỚC

Trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, có một số đảng phái xuất hiện trong nước. Ngoài Bắc có Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Dân Chính, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh). Trong Nam, những Tôn giáo có tính cách chính trị được thành lập như Cao Đài, Hòa Hảo.

Thời gian ấy Chu Bá Phượng làm cho Công ty hỏa xa Vân Nam, là một cán bộ của VNQDĐ Hải ngoại bộ, có dịp thường đi lại trên đường Hà Nội – Côn Minh, và làm liên lạc cho cách mạng ngoài và trong nước. Trong sự liên lạc có “Đại Việt Quốc Dân Đảng”. Đảng này thành lập vào khoảng mùa đông năm 1939, do Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, và mấy cán bộ của VNQDĐ là Nguyễn Văn Viễn, Giáo Lai, Đặng Xuân Tiếp tức Đội Tiếp… Chủ trương và đường lối của Đảng này là chống thực dân Pháp và Cộng Sản, giải phóng dân tộc và xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh dưới một chế độ Cộng Hòa.

Tuy có sự liên lạc với VNQDĐ, song sự hợp tác chưa có gì! Vào khoảng đầu năm 1943, sự liên lạc giữa những người cách mạng Việt Nam trong và ngoài nước được tăng cường rất nhiều. Vì thế ĐVQDĐ cũng bí mật cử một đồng chí là Võ Văn Hải vượt biên giới sang Trung Hoa.

Vì tình hình thế giới và tình hình chính trị Việt Nam lúc bấy giờ, ĐVQDĐ vẫn giữ lập trường gần như không ngả về phe nào “Trục hoặc Đồng Minh”! Tuy có cảm tình với phe Đồng Minh hơn và vẫn hết sức chống Cộng Sản và thực dân Pháp. Tóm lại ĐVQDĐ thân thiện với những đảng thân Nhật để hạ Pháp.

Nhận thấy VNQDĐ Hải ngoại bộ lúc bấy giờ vì địa vị của Pháp đã sút kém trên trường Quốc Tế, đứng dưới cả Trung Hoa, đã có một thế đứng tại Côn Minh, và sự hoạt động cũng hữu hiệu hơn. Tuy nhiên ngoại quốc vẫn hướng về quốc nội; cho nên sự có mặt của một phái đoàn gồm những người cách mạng ở trong nước ra rất là quan trọng, và gây thêm tín nhiệm cho họ. Cho nên VNQDĐ Hải ngoại bộ đã báo tin này về nước, và ĐVQDĐ lúc bấy giờ đã chuẩn bị một phái đoàn ngoại giao đợi dịp xuất ngoại.

PHÁI ĐOÀN QUỐC NỘI SANG TRUNG HOA 

Ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, vì thái độ của Nhật Bản đã khiến cho ĐVQDĐ có một thái độ dứt khoát về chính sách ngoại giao, cho nên luôn luôn liên lạc mật thiết với VNQDĐ Hải ngoại bộ.

Vào khoảng cuối tháng 3.1945, Võ Nguyên Hải bí mật vượt biên giới về nước báo cáo về VNQDĐ Hải ngoại bộ. Đồng thời Lê Ninh tức Lê Khang, một cán bộ cao cấp và rất nhiệt thành ưu tú ở Hải ngoại cũng về nước với mục đích hướng dẫn phái đoàn, những người cách mạng ở trong nước ra ngoài.

Ngày 12.4.1945, Nguyễn Tiến Hỷ cầm đầu phái đoàn, gồm có: Nguyễn Sơn Hải, Nguyễn Định Quốc, Nguyễn Sĩ Dinh, Phạm Khải Hoàn, Phan Bá Trọng, Đặng Vũ Trứ bí mật vượt biên giới Lao Kai, Hồ Kiều sang Côn Minh.  Cùng đi theo với Phái đoàn có một số cán bộ ĐVDCĐ và một số của VNQDĐ. Mục đích họ sang Trung Hoa là để theo những lớp huấn luyện về quân sự.

Cũng lúc này một phái đoàn của “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” tức là Việt Minh cũng sang Trung Hoa.  Họ đi đường Quảng Tây, đến Bát Sát thì bị các nhà chức trách địa phương Trung Hoa mời ở lại đó không cho lên Trùng Khánh, không tiếp đón thảo luận gì cả, vì họ bị nghi là Cộng Sản.  

Đầu tháng 5.1945, tiếp được điện tín của Lê Khang từ Hà Khẩu (địa đầu Trung Hoa) báo tin Đại Biểu đoàn từ trong nước ra đã tới địa đầu Trung Hoa, nhưng không có giấy thông hành, nên không đi được! Hải ngoại bộ vội vàng yêu cầu Trung ương Đảng bộ TQQDĐ can thiệp, để Đại Biểu đoàn được tới Côn Minh một cách nhanh chóng. Năm ngày sau, Đại Biểu đoàn tới nơi.

VNQDĐ Hải ngoại bộ liền thông tri cho Bí thư trưởng trung ương TQQDĐ là Ngô Thiết Thành biết. Đồng thời khai hội cắt đặt một số nhân viên để hợp với Đại Biểu đoàn từ trong nước tới để lên Trùng Khánh, thủ phủ của Trung Hoa Dân Quốc. Những nhân viên được đề cử là: Vũ Hông Khanh, Nguyễn Tường Tam, Lê Khang, Nghiêm Kế Tổ, còn Vũ Quang Phẩm được toàn thể cử ở lại Côn Minh xử lý thường vụ.

Tới Trùng Khánh, sau khi gặp Bí thư trưởng Ngô Thiết Thành, Phái đoàn được mời đi khảo sát các cơ quan giáo dục, văn hóa, công xưởng, y viện, các trường đại học, trường chuyên môn, xưởng in giấy bạc…  Tiếp tục Phái đoàn bắt đầu hội kiến với Trung ương Đảng bộ TQQDĐ và các cơ quan quân sự.

Tưởng Thống Chế Chủ tịch gửi thiệp mời Phái đoàn vào Dinh hội kiến, do Đại Biểu Trung ương TQQDĐ hướng dẫn. Phan Trâm (Nguyễn Tiến Hỷ) nhân danh Đoàn trưởng đứng lên đáp từ một cách nhã nhặn lịch sự.

Phái đoàn được nhà lãnh đạo tối cao Trung Hoa nhận giúp đỡ về phương diện quân sự. Trung Hoa hứa trang bị lần thứ nhất cho một Tiểu đoàn “Quốc Dân Đảng” Việt Nam; và từ đó cứ 3 tháng một lại trang bị cho một Tiểu đoàn khác. Đồng thời Chính phủ Trung Hoa sẽ giới thiệu Cách mạng Việt Nam với những bạn Đồng Minh về phương diện ngoại giao. Chính phủ Trung Hoa hứa sẽ giới thiệu Phái đoàn Việt Nam sang dự Hội nghị San Francisco vào cuối năm 1945 để thành lập LHQ nếu Việt Nam có thể gửi sang kịp lúc bấy giờ một phái đoàn để đi sang Mỹ quốc.

Sư liên lạc ngoại giao quan trọng ấy đến nỗi Đại sứ Pháp tại Trùng Khánh lúc bấy giờ đã có lúc phải phản kháng với Chính phủ Trùng Khánh.

THỐNG NHẤT “ĐẠI VIỆT QUỐC DÂN ĐẢNG”, “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG” VÀ “ĐẠI VIỆT DÂN CHÍNH ĐẢNG” LẦN THỨ NHẤT.

 Phái đoàn ĐVQDĐ sang Trung Hoa lúc bấy giờ còn có một nhiệm vụ đối nội rất quan trọng, đó là vấn đề thống nhất một cách chính thức 3 đoàn thể: ĐVQDĐ – VNQDĐ – ĐVDCĐ. Bởi tuy vẫn có sự hoạt động chung ở trong nước cũng như ở ngoài nước; song chưa có một điều lệ chính thức nào, nên phái đoàn cần phải làm công tác ấy.

Thật ra thì vấn đề thống nhất ai cũng muốn cả, cho nên đến khi thảo luận không có gì là khó khăn!

Lần đầu tiên Nguyễn Tiếp Hỷ gặp Nguyễn Tường Tam ở ga Khai Viễn, hai bên đã đồng ý cố kết với nhau, và Nguyễn Tường Tam hứa là không bao giờ dùng đến tên ĐVDC nữa!

Lần thứ hai, Nguyễn Tiến Hỷ họp với Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Quang Phẩm, Nguyễn Tường Tam; thì cả 3 phe đều đồng ý thống nhất về nguyên tắc như sau: “Ở hải ngoại thì lấy tên là VNQDĐ vì ngoại quốc biết nhiều hơn! Trái lại, ở trong nước thì lấy tên là ĐVQDĐ. Các điều khác sẽ bàn sau”.

Một hội nghị thứ ba, họp ở Trùng Khánh có đủ mặt các người nói trên, thêm Nguyễn Sĩ Dinh và Phạm Khải Hoàn. Hội nghị quyết định thống nhất tên Đảng theo như trên. Về cờ Đảng, Nguyễn Tiến Hỷ trình bày lá cờ “Sao Trắng”, hội nghị chấp nhận. Đồng thời dùng ngay lại Trung Hoa lần thứ nhất vào khoảng tháng 6 năm ấy. Về Đảng ca, nghĩ sáng tác sau này.

Ngày cuối cùng, nhân danh TQQDĐ Trung ương Đảng bộ mời Đại Biểu đoàn dự một dạ yến, gồm có các vị Bộ trưởng và đại diện các cơ quan trọng yếu. Bí Thư trưởng Ngô Thiết Thành đứng lên diễn thuyết nói về lịch sử hai dân tộc và sự tương quan giữa hai đảng cách mạng anh em. Nguyễn Tiến Hỷ trịnh trọng đáp từ; ngỏ ý trông mong vào sự giúp đở của Trung Hoa, để sớm hoàn thành nhiệm vụ phục quốc và tăng uy thế cho hai đảng cách mạng anh em.

Qua ngày hôm sau, lại có một cuộc hội nghị giữa Đại Biểu đoàn “Quốc Dân Đảng” và Trung ương Đảng bộ TQQDĐ do Ngô Bí thư chủ tọa.

Nhận thấy tình hình thế giới biến chuyển ngày càng mau lẹ, nên sau khi làm xong nhiệm vụ, Đại Biểu đoàn liền cáo biệt trở lại Côn Minh.

Về Côn Minh, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam chịu trách nhiệm hoạt động ngoại giao ở Hải ngoại. Hải ngoại bộ được giao cho Vũ Quang Phẩm, một cán bộ ưu tú rất đắc lực tổ chức lại, và chỉ huy dưới sự kiểm soát của ba ông trên. Nguyễn Sĩ Dinh được cử ở lại Hải ngoại để tăng cường về phương diện kinh tế cho Đảng.

Nguyễn Tiến Hỷ, Phạm Khải Hoàn… lần lượt bí mật trở về công tác trong nước, và lo tổ chức một phái đoàn khác có tính cách ngoại giao hơn để đưa sang Mỹ. (1)

==========================

Ghi Chú:

(1) Tài liệu này do sự tham khảo cùng Bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ tức Phan Trâm.

[Bấm vào đọc chương trước]

[Bấm Vào Đọc Chương Kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (16)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Ba (1940-1946)/ Chương I: “PHONG TRÀO CHÍNH TRỊ SÔI ĐỘNG”

THIÊN THỨ BA (1940-1946)

CHƯƠNG I:  PHONG TRÀO CHÍNH TRỊ SÔI ĐỘNG 

ĐÔNG DƯƠNG ĐẠI HỘI NGHỊ

Sau cuộc Tổng Khởi Nghĩa oanh liệt của VNQDĐ đầu năm 1930, từ Bắc đến Nam liên tiếp có những cuộc dân chúng biểu tình phản kháng chính quyền thực dân, khiến chính quyền phải dùng vũ lực đàn áp, sát hại cả ông già, đàn bà và trẻ con, cùng đốt nhà dân, tù đày hàng ngàn người để giữ vững ngôi thống trị.

Mấy năm kế tiếp, những đệ tử Đệ Tam và Đệ Tứ Quốc Tế tranh giành nhau ảnh hưởng và tìm đủ mọi cách phá hoại các đảng phái quốc gia đối lập, tạo nên cơ hội thuận tiện cho Thực dân dễ bề đàn áp. Phong trào cách mạng dân tộc trong nước hầu như tê liệt. Mãi đến năm 1936, Mặt Trận Bình Dân Pháp lên nắm chính quyền, mới có một luồng không khí mới dễ thở ở các thuộc địa. Các nhóm cách mạng Việt nam thừa cơ hội gây phong trào tổ chức Đông Dương Đại Hội, yêu cầu chính quyền Pháp cải cách chính trị và phóng thích chính trị phạm.

 Để phát động phong trào chính trị một cách sâu rộng trong quảng đại quần chúng Việt Nam, ngày 17 tháng 6 năm 1936, nhân ngày 13 vị liệt sĩ VNQDĐ lên máy chém ở Yên Bái, các nhà ái quốc miền Nam, gồm cả các bạn Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế đã tổ chức lễ kỷ niệm rất long trọng, và được dân chúng tham dự rất đông đảo tại Rạp Hát Bội Đại lộ Galliéni (Đại lộ Trần Hưng Đạo bây giờ) Sài Gòn. Chúng tôi còn nhớ có một Đại Biểu phụ nữ lên diễn đàn nói về hoạt động cách mạng của Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang.

Lệnh phóng thích bắt đầu, một số lớn quốc sự phạm Việt Nam được trả tự do; riêng các chiến sĩ VNQDĐ được phóng thích có trên 100 người; nhưng chỉ có một số ít, những người sinh quán ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng là được ở lại hai thành phố ấy, còn đều bị đưa về nguyên quán chịu nốt cái án 5 năm biệt xứ (interdiction de séjour), nói là biệt xứ, nhưng sự thực là quản thúc, không hơn không kém, vì Thực dân ngầm ra lệnh cho chức dịch địa phương phải ngày đêm theo dõi canh chừng, khiến cho những người bị đưa về nguyên quán không còn cách gì hoạt động được.

 Phạm Tuấn Tài (1) về tới quê nhà được ít lâu thì tạ thế. Hồ Văn Mịch cùng hàng trăm đồng chí của anh đã bỏ mình ngoài Côn Đảo. Tóm lại lịch sử cách mạng VNQDĐ ở trong nước bắt đầu im lìm từ đầu năm 1933 đến cuối năm 1936 mới có sự hoạt động trở lại. 

Cuối năm 1936, Nguyễn Thế Nghiệp cũng được phóng thích từ Thượng Hải trở về Hà Nội cùng Nguyễn Ngọc Sơn và một số đồng chí có mặt tại Hà Nội, kết hợp lại bắt đầu hoạt động trong một phạm vi có thể làm được. Cơ quan ngôn luận xuất bản tờ “Tân Báo” do Nguyễn Văn Lộ (2) làm Chủ nhiệm, Nguyễn Thế Nghiệp làm Chủ bút. Tân Báo ra đời được ba tháng, bị chính quyền thực dân ra lệnh đóng cửa. Tiếp theo lại xuất bản tờ báo “Dân” do Nguyễn Đình Đa làm Chủ nhiệm, Nguyễn Văn Chấn Chủ bút, Nguyễn Ngọc Sơn Giám đốc Chính trị (1937-1938). 

ĐẠI VIỆT QUỐC GIA LIÊN MINH 

1939, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.

1940, Quân đội Nhật Bản đổ bộ Đông Dương.

Các đảng cách mạng cũ: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội ở quốc nội thừa cơ hội bắt đầu hoạt động.

Các đảng cách mạng mới: Đại Việt Quốc Xã Đảng (3), Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính Đảng (4), Đại Việt Duy Dân Đảng (5), Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (tức Mặt Trận Việt Minh gồm ba đảng tham dự: Đông Dương Cộng Sản Đảng, Dân Chủ Đảng và Đảng Xã Hội Việt Nam) cũng tiếp tục ra đời, ráo riết hoạt động. 

Để đề phòng sự chống đối trong khi có mặt quân đội Phù Tang tại Đông Dương, Chính quyền Thực dân Pháp ra lệnh bắt giữ một số đông những chính khách và những nhà cách mạng Việt Nam tập trung tại Sơn La và Vụ Bản (Hòa Bình). Cho mãi đến cuối năm 1942 đầu 1943, Chính quyền Pháp mới lần lần trả tự do cho những phần tử trên. Họ trở về lại bắt đầu hoạt động.

“Việt Nam Quốc Dân Đảng” cũng như “Đại Việt Quốc Dân Đảng” tại quốc nội đều có thành lập chiến khu ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang và Thanh Hóa, không ngoài mục đích làm nơi rèn luyện quân sự cho các thanh niên đảng viên.

“Đông Dương Cộng Sản Đảng” trá hình khoác bộ áo quốc gia, thành lập “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh” (tức Việt Minh) lập chiến khu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Đông Triều, lãnh tụ là ông Nguyễn Ái Quốc. 

Cũng như “VNQDĐ Hải Ngoại Bộ”, “VNĐLĐM” (VM) đều đứng trong tổ chức “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” thành lập năm 1942 tại Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Hoa); một tổ chức đứng hẳn về phe Đồng Minh chống lại phe Trục: Đức-Ý-Nhật.

Tại quốc nội, vì tình thế đặc biệt phải đương đầu với cả hai kẻ thù thế lực đều hùng mạnh: Nhật và Pháp. Để làm tấm bình phong che đỡ cho toàn thể đảng viên ở quốc nội, một số cán bộ mà tên tuổi đã quá lộ liễu như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Hữu Đạt, Ngô Thúc Địch và Nhượng Tống họp nhau ở một căn nhà trước vườn hoa phố Cửa Nam, rồi ra công khai “Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng” ở số 61 phố Trường Thi Hà Nội.

Để thực hiện mục đích một cách hữu hiệu, “Tân VNQDĐ” đứng ra liên minh với các đảng bạn: ĐVQDĐ, ĐVQXĐ và ĐVDCĐ thành lập mặt trận “Đại Việt Quốc Gia Liên Minh” vào đầu năm 1944 với mục đích là “Thân Nhật để hạ Pháp.”

Thành phần Ban Chấp hành Trung ương “Đại Việt Quốc Gia Liên Minh” gồm có: Nguyễn Xuân Tiếu, Nguyễn Tường Long, Trương Tử Anh, Ngô Thúc Địch, Bùi Như Uyên, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống, Nguyễn Đăng Đệ, Nguyễn Xuân Dương tức Lạc Long, Nguyễn Xuân Tiếu được cử làm chủ tịch.

===================

Chú Thích:

(1) Phạm Tuấn Tài sinh quán tại làng Phù Cừ huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Vì hoạt động quá sức, vốn người lại yếu, nên anh mắc chứng lao phổi. Bị đầy ra Côn Đảo, vì chế độ lao tù quá cực khổ, khiến bệnh anh mỗi ngày mỗi trầm trọng.

Năm 1934, thời kỳ bệnh phát nặng, bị đưa ra bệnh viện cùi. Các đồng chí phải kiếm tre, lá dựng cho anh một cái lều riêng để ở, và hàng ngày lo liệu tiếp tế thực phẩm cho anh.

Mặc dầu bị trùng lao tàn phá, buồng phổi mỗi ngày một trầm trọng, tinh thần Phạm Tuấn Tài vẫn mạnh mẽ, anh bí mật ra một tờ báo phát hành trong nhà tù, cổ động anh em giữ vững tinh thần cách mạng mệnh danh là báo “Tiếng Gọi.”

 Đến thời kỳ bệnh tình suy nhược, Phạm Tuấn Tài đổi tờ báo “Tiếng Gọi” ra báo “Tiếng Rên.” Qua thời kỳ bệnh tình trầm trọng, họ Phạm đổi là báo “Tiếng Gào.”

 Phạm Tuấn Tài tạ thế tại nguyên quán, được giới cách mạng, trí thức và sinh viên học sinh tỉnh Nam Định tổ chức lễ truy điệu rất long trọng. 

(2) Nguyễn Văn Lộ là một đảng viên VNQDĐ ngay từ ngày Đảng mới thành lập, nguyên quán tại tỉnh Thái Bình.  Sau ngày VC cướp được chính quyền, Nguyễn Văn Lộ cùng người con trai của ông bị VC bắt đem chôn sống ở bãi Đồng Châu thuộc tỉnh Thái Bình. 

(3) “Đại Việt Quốc Gia Xã Hội Đảng” viết tắt là “Đảng Đại Việt Quốc Xã” do Nguyễn Xuân Tiếu tức Nguyễn Lý Cao Kha sáng lập từ năm 1936, lấy chủ nghĩa “Duy Trung Tâm Vật,” luật tắc là “Hỗ Tương” khác với “Duy Vật Mâu Thuẫn, Duy Tâm Vật Định Mệnh.”

(4) Để đón tiếp luồng gió mới, lợi dụng người Nhật để có cơ hội giải phóng cho đất nước Việt Nam. Năm 1940 nhóm Tư Lực Văn Đoàn do Nguyễn Tường Tam lãnh đạo cùng một số đồng chí của ông thành lập “Đại Việt Dân Chính Đảng.” Nguyễn Tường Long được cử làm Tổng Thư ký.

(5) “Đại Việt Duy Dân Đảng” do Nguyễn Hữu Thanh, một đoàn viên trong nhóm “Tự Lực Văn Đoàn”; sau gia nhập “VNPQĐMH” là chính trị viên, đi sát với Hoàng Lương lánh sang Trung Hoa vào cuối năm 1940, nghĩa là sau ngày “Phục Quốc Quân” bị thất bại ở Lạng Sơn, lấy bí danh là “Ngọc Thỏ”.  Vào khoảng cuối năm 1941 đầu 1942, sáng lập ra “Đại Việt Duy Dân Đảng” ở Trung Hoa, đổi tên là Lý Đông A.

Cuối năm 1944 trở về nước, tuyên truyền vào giới sinh viên đại học như Lê Quang Luật, Nghiêm Xuân Hồng.

1946, “ĐVDDĐ” mưu cuộc đảo chính, bị Việt Cộng bắt, một số lãnh đạo bị sát hại ở Hòa Bình (Bắc Việt).

[Bấm vào đọc chương trước]

[Bấm vào đọc chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (18)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Ba (1940-1946)/ Chương III: “LỊCH SỬ VIỆT NAM BƯỚC VÀO KHÚC QUẸO – CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐOẠT CHÍNH QUYỀN

Thiên Thứ Ba (1940-1946)

Chương III: LỊCH SỬ VIỆT NAM BƯỚC VÀO KHÚC QUẸO

CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐOẠT CHÍNH QUYỀN

Theo dõi đài phát thanh ngoại quốc, tin Nhật Bản sửa soạn đầu hàng Đồng Minh được loan truyền đi rất nhanh chóng. Trong khi ấy thì các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp cùng hầu hết cán bộ cao cấp trong “Mặt Trận Việt Minh” (1) đều có mặt ở Tân Trào (Tuyên Quang) họp hội nghị. Khi nhận được tin Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng Minh, hội nghị họp gấp để bế mạc. Đại Biểu “Dân Chủ Đảng (DCĐ)” (2) ra về, các cán bộ CS được mật lệnh ở lại họp phiên riêng, để nhận huấn lệnh đặc biệt trong việc đối phó với các phần tử DCĐ, các đảng phái quốc gia và các nhóm nhân dân tự động, để ngầm nắm trọn chính quyền nhân dân về tay ĐDCSĐ. 

Trần Đình Long, một cán bộ CS thâm niên có mặt ở Hà Nội lúc ấy, tìm Đoàn Xuân Tín tức Lê Trọng Nghĩa, một Trung ủy DCĐ, thành lập ngay “Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng”, thành phần trong ủy ban đa số là đảng viên DCĐ. Vấn đề cấp tốc đoạt chính quyền được đề ra, một số bàn nên sách động quần chúng. Cuối cùng giải pháp của Đoàn Xuân Tín là thuyết phục Khâm Sai Phan Kế Toại và Phan Anh Bộ trưởng bộ Thanh Niên hiện có mặt tại Hà Nội được đa số tán thành. Phan Kế Toại thì đã có con trai là Phan Kế Bảo, một phần tử trong hàng ngũ VM làm liên lạc; còn Phan Anh thì đã có người em là Phan Mỹ đảng viên ĐDCSĐ làm liên lạc.

Tất cả sự kiện liên lạc và thuyết phục Phan Kế Toại, Trần Văn Lai … chúng tôi đã trình bày rõ ràng ở một chương trên.

Sau 80 năm bị lệ thuộc, dân tộc Việt Nam chỉ thèm khát độc lập, và không biết gì đến những khuynh hướng chính trị của phe này với nhóm khác. Người dân Việt Nam nghĩ rằng miễn là nước được độc lập, còn đảng nào, phái nào lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập hay cầm chính quyền cũng vậy, cốt là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”

Một yếu tố khác, ngót hai triệu đồng bào chết đói vừa qua, là chết để đem linh hồn thức tỉnh ý chí những kẻ còn sống phải phục thù rửa hận cho toàn dân. Đó là hoàn cảnh tạo nên cuộc cách mạng âm ỷ trong đầu óc mọi người dân Việt, khác nào như một kho thuốc nổ, chỉ còn đợi người nào hoặc đoàn thể nào châm ngòi lửa là bùng nổ. Lò thuốc súng đã có người châm, ngòi đã nổ, quần chúng ùa chạy theo Việt Minh Cộng Sản.

Sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, vào hồi 8 giờ hơn, đoàn cán bộ Việt Minh tất cả chưa tới con số 30 người với 17 khẩu súng lục, tiến đến Nhà Hát Lớn Hà Nội. Mấy cán bộ lên đọc ngập ngừng những lời hiệu triệu yếu ớt trước máy phóng thanh với rất đông quần chúng tay cầm lá cờ giấy, lá cờ giấy đỏ sao vàng từ 5 cửa ô tiến vào, hợp với số dân chúng Thủ Đô đã đứng đợi từ sớm. Đến hồi 10 giờ bắt đầu biến cuộc biểu tình thành tuần hành thị uy tiến về phía Khâm Sai phủ.

Khâm Sai phủ lúc bấy giờ chỉ còn lại một mình Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ và 50 binh sĩ Bảo An. Bác sĩ Chữ cho gọi lấy máy phóng thanh để nói chuyện với dân chúng một vài lời, thì được trả lời các máy phóng thanh đã cho VM mượn hết.

 Bất đắc dĩ phải thân ra tận hành rào sắt, đứng trong nói ra với dân bên ngoài, dân chúng yên lặng nghe. Một lát sau, một thanh niên đã từng ra vào Khâm Sai phủ nói chuyện với Phan Kế Toại nhiều lần và cả với Bác sĩ Chữ nữa, rút súng chĩa vào Bác sĩ Chữ. 

 – “Trong đại sự phải gác bỏ tình nghĩa riêng tây, tôi yêu cầu ông mở cửa.”

 – “Thượng cấp các ông nhất định không chịu thay đổi ý định!”

 – “Vâng!”

 Chỉ tay vào khẩu súng, Bác sĩ Chữ nói:

 – “Ông hà tất phải dùng thủ đoạn này! Tôi không sợ súng! Tôi buồn cho tương lai nước nhà!”

 Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ quay vào, ra lệnh cho Bảo An Binh mở cửa; bởi ông nghĩ rằng: “Hạ lệnh cho Bảo An Binh bắn vào dân chúng để giải tán biểu tình, liệu Bảo An Binh có tuân lệnh không? Nếu Bảo An Binh tuân lệnh, giải tán được cuộc biểu tình hôm nay với vài ba người dân bị thương nhẹ, nặng, hoặc tử thương thì những ngày sau, lòng căm hờn của dân chúng được VM CS kích thích, tất sẽ đưa đến những cuộc bạo động này, bạo động khác liên tiếp; hỏi Bảo An Binh có thể giữ cho được khỏi rơi vào tay VM CS được không? Mà chính cấp chỉ huy Bảo An Binh Hà Nội đã theo VM CS rồi!

Sau khi Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ ra lệnh mở cửa cho VM CS vào Khâm Sai phủ, cán bộ VM CS liền tước hết khí giới Bảo An Binh, rồi cho về trại.

Tòa Thị Chính cũng như trại Bảo An Binh đều mở rộng cửa ra mời VM CS vào.

Và sau đó Bác sĩ Trần Văn Lai cũng được mời tới Khâm Sai phủ. Cán bộ VM CS mời hai Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai ra xe hơi đưa qua cầu Long Biên tiến về một làng quê giam lỏng cả hai người vào một nơi, cứ thế hết làng này tới làng khác, mỗi làng giam lỏng vài tháng; tất cả đến 5 tháng, nghĩa là sau ngày bầu xong quốc hội, VM CS mới đưa 2 Bác sĩ về giam ở nha Công An Hà Nội ít ngày rồi trả tự do. (3) 

VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM! 

Cướp được chính quyền ở Thủ Đô Bắc Việt, phong trào lan khắp các tỉnh. Việt Minh địa phương tự động nổi lên, không gặp một sức phản ứng nào! Lính Bảo An chạy dài, quan lại đầu hàng, một số bị bắt, bị giết chết. Duy có 3 tỉnh: Hà Giang bị VNQDĐ chiếm đóng ngay từ sau ngày Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh. Thứ đến tỉnh Vĩnh Yên, VNQDĐ cũng đánh chiếm một vài ngày sau khi VM CS cướp chính quyền ở Thủ Đô. Thứ 3 là tỉnh Hà Đông.

 Ngày 17 tháng 8 năm 1945, trong khi các công chức tỉnh Hà Đông đương tập thể dục tại sân vận động Thành phố, cán bộ VM CS len lỏi đến hô hào biểu tình ủng hộ VM CS; nhưng bị Giám đốc Bảo An Binh là Quản Dưỡng ngăn chặn kịp thời nên cuộc vận động của VM CS không thành.

Sang ngày 18, Quản Dưỡng cho mổ bò thết tiệc các binh sĩ thuộc dưới quyền, rồi ra lệnh thiết quân luật, niêm yết cáo thị trước trại Bảo An Binh, bố trí canh phòng cẩn mật.

Ngày 19, Việt Minh CS đã đoạt được chính quyền ở Hà Nội. Kim Giang, một cán bộ VM CS dẫn một số đông đồng chí đến tỉnh Hà Đông, uy hiếp Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm thành lập Ủy ban Cách mạng do Kim Giang làm Chủ tịch. Hồ Đắc Điềm rút lui, lãnh công tác xã hội: đốc thúc việc hộ đê.

Hà Đông bị vỡ đê, nước tràn ngập vào thành phố. Kim Giang phái cán bộ vận động quần chúng kéo đến trại Bảo An Binh, xô nhau tiến vào, không thèm đếm xỉa đến Quản Dưỡng. Quản Dưỡng ra lệnh bắn. Kết cục dân chúng bị thương bị chết hàng mấy chục người, số còn lại đều bị bắt giam trong trại Bảo An Binh. Cho mãi đến buổi chiều ngày hôm sau mới được thả ra.

Sang ngày 21, Quản Dưỡng được tin VM CS đã đoạt được chính quyền ở nhiều tỉnh. Quản Dưỡng đã lâm vào cô thế, tiếp tế khí giới cũng như lương thực đều không trông cậy vào nơi đâu! Không thể nào chống giữ một cách lâu dài được! Ông bèn lặng lẽ lén rút lui trên một chiếc xe hơi của quân đội Nhật Bản định rời khỏi tỉnh Hà Đông. Không may bị VM CS chặn lại bắt được đem tống giam.

Cách hai tuần sau, đem ra xử trước Tòa án Nhân dân theo kiểu VM CS, Quản Dưỡng bị kết án tử hình, và bản án ấy được thi hành ngay buổi sáng ngày hôm sau tại sân trại Bảo An Binh.

Trước khi trút linh hồn, Quản Dưỡng đã hô to:

– “VIỆT NAM MUÔN NĂM!  VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM!” 

KHỦNG BỐ, GIAM CẦM VÀ THỦ TIÊU 

Tin tức được loan truyền rất mau lẹ: “Cộng Sản Việt Nam đã đoạt được chính quyền.” Tờ báo Tin Mới được sung công tức khắc dùng làm guồng máy tuyên truyền ầm ỹ cho Mặt Trận Việt Minh.

Chính quyền địa phương VM tự động vu cho người này là Việt gian, kẻ kia là phản động, ác bá, cường hào, bắt giam và thủ tiêu không biết bao nhiêu mà kể! Mà Ủy ban Hành chính địa phương lúc bấy giờ hầu hết là những phần tử bất hảo nổi lên, vì tư thù cũng gán ngay cho tội là phản động, là cường hào ác bá! Tịch thu tài sản …

Tại Hà Nội, ngay buổi tối ngày 19 tháng 8, cán bộ Cộng Sản kéo đến vây số nhà 23 phố Cửa Nam, trụ sở của VNQDĐ, bắt 8 người; trong số đó có Phạm Văn Hể, Nguyễn Đăng Đóa, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Văn Tố là những Ủy viên trong Ban Chấp hành Tổng Bộ nằm trong vòng bí mật của VNQDĐ. Cho mãi tới sáng ngày hôm sau, Nguyễn Văn Chấn đến can thiệp với Khuất Duy Tiến các người trên mới được thả ra. Các lãnh tụ cũng như một số cán bộ, những người mà Cộng Sản biết rõ tông tích đều lẩn tránh hết.

Để khủng bố tinh thần các đảng phái cách mạng Quốc Gia. Sau 11 ngày cướp được chính quyền, VM CS ra lệnh cho Công An bắt cóc Nguyễn Thế Nghiệp (4) và vợ chồng Nguyễn Ngọc Sơn.

Nguyễn Thế Nghiệp và Nguyễn Ngọc Sơn, VM CS đưa lên giam tại đình làng Đông Ngạc tức làng Vẽ, rồi cách ít ngày sau, đem thủ tiêu vào buổi sớm tháng 9 năm 1945 tại ghềnh sông làng Chèm tức là làng Thụy Phương, cách Hà Nội độ 10 cây số. Còn vợ Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Thị Thăng, thì đưa đi giam tại Thái Nguyên. Đào Chu Khải cũng bị VM CS bắt trên căn lầu tại một ngôi nhà ở phố Rollandes, Hà Nội, đưa lên Tứ Tổng hành hạ và đánh đập rất tàn nhẫn, rồi thủ tiêu ở đấy.

 Về phía biên giới Việt-Hoa, Hồ Chí Minh ra lệnh cho đàn em của ông, những phần tử Cộng Sản trung thành với chủ nghĩa, chăng lưới sắt suốt một khoảng đường dài biên giới, do Dương Hoài Nam, Bùi Ngọc Thanh, v.v… chỉ huy, bắt hết những anh em cách mạng, những đồng chí của họ Hồ trong tổ chức VNCMĐMH từ Côn Minh, Quảng Châu, Liễu Châu… trở về nước.

 Người nào chịu theo, tức là đầu hàng Cộng Sản thì được đưa về Hà Nội tùy tài sử dụng, như Bùi Văn Hạch, Trần Ngọc Tuân, Trần Đức Chinh và hàng trăm thanh niên cán bộ VNQDĐ và VNPQĐMH. Người nào không chịu theo, tức thời Cộng Sản dùng áp lực quân sự dẫn vào trong rừng thẳm thủ tiêu. 

Bị dồn vào thế Cộng Sản, Trần Ngọc Tuân, một cán bộ cao cấp VNQDĐ đổi tên là Trần Xuân Sinh, được Tổng Bộ Việt Minh cử làm chủ bút tờ báo “Cứu Quốc” để chuyên môn tuyên truyền bôi nhọ VNQDĐ.

Bùi Văn Hạch cũng là một cán bộ cao cấp VNQDĐ đổi tên là Bùi Đức Minh. Tổng Bộ VM cử làm Tổng Giám Đốc Công An Hà Nội, để tra khảo các Đảng viên VNQDĐ mà mới cách ít ngày trước, những người ấy đều là đồng chí với Bùi Văn Hạch.

Hàng trăm thanh niên cán bộ, đảng viên, một số được Tổng Bộ VM cử làm huấn luyện viên các trường Quân sự, Công Binh xưởng, v.v… 

CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ CÁO CHUNG 

Ngày 21 tháng 8 năm 1945, cán bộ Cộng Sản Việt Nam thúc đẩy một số sinh viên Đại học cùng một số trí thức, chính trị xu thời ở Hà Nội triệu tập một cuộc họp tại trú khu sinh viên Đại Học, thảo kiến nghị gởi vào Huế, yêu cầu Hoàng Đế Bảo Đại vì quốc gia dân tộc mà thoái vị; tiếp theo lại một số điện văn từ Hà Nội đánh vào Huế thúc dục nhà vua.

Tại kinh đô Huế, từ ngày 20 tháng 8, đã thấy một số thanh niên đi căng biểu ngữ và dán bích chương cùng đường, hô hào dân chúng biểu tình để lập Ủy ban Cách mạng. Trước hành động như vậy, mà Triều đình chẳng có một phản ứng nào!

Triều đình Huế chỉ còn trơ lại có Hoàng Đế Bảo Đại. Từ Thủ tướng đến Bộ trưởng đã rút lui mỗi người đi mỗi nơi; bởi CS cho kẻ phao đồn đến tai các vị Bộ trưởng, là CS được các quốc gia Đồng Minh ủng hộ, có đủ tầu bay, xe tăng, thiết giáp và súng đạn rất nhiều; dầu Triều đình có chống lại cũng bằng vô ích! Hơn nữa, Triều đình là do quân đội Nhật Bản tạo nên, mà Nhật Bản lúc này là kẻ thù của Đồng Minh.

Giữa khi ấy, vị Tư lệnh quân đội Nhật Bản ở Huế vào yết kiến Hoàng Đế Bảo Đại, tự hiến giúp nhà Vua quét sạch CS một cách mau lẹ không khó khăn gì, vì lực lượng CS ngay ở Thủ Đô Hà Nội cũng chẳng có gì là đáng kể!  Huống hồ là các tỉnh lẻ! Và nhất là ở Trung và Nam Việt lúc đó vẫn còn hoàn toàn thuộc ảnh hưởng nhà Vua.

Bởi ngồi trong điện ngọc lầu vàng, vua Bảo Đại chẳng hiểu tình thế xã hội ra sao! Hơn nữa, triều thần thì đã bỏ đi hết, không còn biết hỏi ý kiến ai! Với thế cô lập, nhà Vua không chấp thuận đề nghị của Tư lệnh Nhật Bản, để tránh một cuộc nội chiến, đi tới huynh đệ tương tàn.

Ngày 22 tháng 8, nhà Vua đánh điện tín mời Đại Biểu Cộng Sản VN vào Huế để thành lập Nội Các, thay thế cho Nội Các Trần Trọng Kim. CS phúc đáp từ chối. Cũng ngày hôm ấy, nhiều thanh niên đã kéo đến chiếm giữ các công sở tại Thần Kinh, mà không gặp một sức phản ứng nào!

Ngày 24 tháng 8, Hoàng Đế Bảo Đại chuẩn y lời yêu cầu của Ủy ban Cách mạng Hà Nội: vui lòng thoái vị xuống làm công dân một nước độc lập.

Điềm chẳng lành mà cờ “Quẻ Ly” đã báo hiệu (nếu tin là có) đến đây đã thấy chứng thực. Ba vạch, hai liền (Ky) một đứt (Ngẫu) là hình quẻ Ly trong Kinh Dịch: “Nhất âm lệ ư nhị dương chi gian”. Hình Quẻ Ly giống chữ Vương, khác là ở chữ Vương có nét sổ, ở quẻ Ly nét sổ lại trống không (vua không xương sống) lấy gì mà chống đỡ nền quân chủ! Không những quốc dân đã xa Triều Đình, cả đến các nơi chính quyền, khắp các chính giới, các ngành chuyên môn thuộc Triều Đình, lại ngay quân đội của Triều Đình, không nơi nào thấy một cột nhỏ có thể dựng được!

Ngày 25 tháng 8, tại Ngọ Môn Đài, Kinh đô Huế, vị Hoàng Đế cuối cùng Triều Nguyễn đã ban chiếu thoái vị, và trịnh trọng trao quốc ấn cùng bảo kiếm, biểu hiệu ngai vàng cho đại diện Ủy ban Cách mạng là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận rồi tiếp nhận huy hiệu “Người công dân thứ nhất của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, và lấy tên là “Công dân Vĩnh Thụy.”

Ngày 29 tháng 8, trong một bản Tuyên ngôn gửi các quốc gia trên thế giới, Vua Bảo Đại tuyên bố: “Tôi đã thoái vị và hân hạnh được làm một công dân của một quốc gia độc lập.” Và dưới đây là nguyên văn bài chiếu thoái vị:

 “Ngày 25 tháng 8 năm 1945

 Hạnh phúc của dân Việt Nam

 Độc lập của nước Việt Nam”

Muốn đạt được mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả mọi phương diện; và cũng vì mục đích ấy, nên Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải bổ ích cho Tổ quốc.

Xét thấy điều bổ ích nhất cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân. Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng:

Trong giờ phút nghiêm trọng này đoàn kết là sống, mà chia rẽ là chết!

Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên cao quá, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam, Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân, lại có cơ hội thuận tiện cho người ngoài lợi dụng.

Cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới công lao Liệt Thánh vào sinh ra tử trong gần 400 năm, để mở mang giang sơn đất nước từ Thuận Hóa đến Hà Tiên.

Mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua 20 năm, mới gần gũi quốc dân được mấy tháng, chưa làm được điều gì có ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn.

Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ Cộng Hòa.

Trong khi trao quyền cho Chính phủ mới, Trẫm chỉ có mong ước 3 điều sau này:

1. Đối với Tôn Miếu và lăng tẩm của Liệt Thánh, Chính phủ mới xử trí thế nào cho có sự thể.

2. Đối với các đảng phái đã từng phấn đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát phong trào dân chúng, Trẫm mong Chính phủ sẽ lấy sự ôn hòa xử trí, để những phần tử ấy cũng có thể dự vào sự kiến thiết quốc gia, và tỏ rằng Chính Phủ Dân Chủ Cộng Hòa nước ta đã xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.

3. Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết tất cả các giai cấp, các đảng phái cho tới các người Hoàng tộc cũng vậy, đều hợp nhất mà triệt để ủng hộ Chính phủ Dân Chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm sau 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng nuốt cay!

Từ nay Trẫm lấy làm vui, được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của Hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa! 

VIỆT NAM ĐỘC LẬP MUÔN NĂM!

DÂN CHỦ CỘNG HÒA MUÔN NĂM! 

Khâm thử

Phụng Ngự ký: BẢO ĐẠI 

CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 

Chế độ Quân chủ đã chính thức tuyên bố cáo chung. Các Đảng phái cách mạng dân tộc, sau khi nghe ngóng cũng không hề có một phản ứng chống đối nào! Các ông lãnh tụ ấy đã mạnh ai nấy chạy trốn lánh hết!

Ngày 28 tháng 8, ông Hồ Chí Minh cùng mấy yếu nhân Cộng Sản mới từ Tân Trào bí mật trở về Hà Nội, lén đến ở nhà Trịnh Văn Bính ở phố Hàng Đào.

Ngày 29 tháng 8, ông Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Lâm thời. (5)

Ngày mồng 2 tháng 9, tại vườn hoa Ba Đình, thiết lập bàn thờ Tổ quốc. Cờ đỏ sao vàng rợp trời! Dân chúng đến tham dự có tới mấy trăm ngàn người!

Đúng 15 giờ, một ông già cao mảnh khãnh từ từ bước lên khán đài. Trần Huy Liệu (6) trịnh trọng giới thiệu với đồng bào đến dự lễ “Độc Lập” là cụ Hồ Chí Minh chủ tịch Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Giới cách mạng Việt Nam chỉ biết Nguyễn Ái Quốc là ông trùm Cộng Sản, chứ chưa hề được nghe tên Hồ Chí Minh là một nhân vật cách mạng Việt Nam bao giờ! Ngay cả những ông trong tổ chức VNCMĐMH hàng ngày các ông ấy ăn chung ở đụng với ông Hồ Chí Minh; nhưng người ta rất thơ ngây không biết chính Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Ái Quốc đấy! Cho nên dân chúng còn làm sao mà biết được ông Hồ Chí Minh là ai?

 

Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 02-09-1945. Cũng là giây phút đưa dân tộc Việt Nam vào nền cai trị của độc tài toàn trị Cộng Sản, một đại họa cho dân tộc Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ; đoạn giơ cao tay phát thệ:

 – “Thề không điều đình với Pháp!

 – “Thề chết chứ không chịu nô lệ!

 – “Thề không đi lính cho Pháp!

 – “Thề không đưa đường cho Pháp!

 – “Thề không tiếp tế cho Pháp!…

 Làn sóng người dự lễ giơ thẳng cánh tay hò hét vang dội “XIN THỀ.”

 Tới ngày 20 tháng Chín, Chủ tịch Hồ Chí Minh (7) ra sắc lệnh cử công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao cho Chính phủ. Vĩnh Thụy đã đóng vai trò chính trị ấy một cách hết sức lơ đãng.

 Ông Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ, công khai ra bản tuyên cáo và ra mắt dân chúng. Các báo chí Quảng Tây đều đăng tải tin ấy. Tư lệnh Trương Phát Khuê, một vị tướng quyết liệt chống Cộng rất lấy làm công phẫn bởi mục đích của ông là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, thì Đồng Minh sẽ giúp đỡ cho VNCMĐMH đứng lên lập Chính phủ; chứ không ủng hộ cho một đoàn thể riêng rẽ nào! Nay ông Hồ Chí Minh đã phản bội VNCMĐMH ra lập Chính phủ hoàn toàn Cộng Sản, là một điều trái với ý định của Chính phủ Tưởng Giới Thạch. 

Tư lệnh Trương Phát Khuê liền phái Tiêu Văn đại diện cho Đệ Tứ Chiến Khu sang Việt Nam để tìm cách hỗ trợ cho VNCMĐMH thành lập chính phủ, đồng thời phái 4 đại đội, đều là chiến sĩ trong tổ chức VNCMĐMH trợ lực quân sự cho Tiêu Văn.

 – Đại đội I do Đặng Văn Ý chỉ huy từ đường Bảo Lộc tiến vào Bắc Việt.

 – Đại đội II do Bồ Xuân Luật chỉ huy từ đường Bắc Sơn tiến vào Bắc Việt.

 – Đại đội III do Lê Tùng Sơn (8) chỉ huy.

 – Đại đội IV do Vũ Kim Thành chỉ huy tiến về phía Đông Hưng, Móng Cái.

 Về tới Hà Nội, Tiêu Văn bị đấm mõm bằng vàng, trích trong “Tuần Lễ Vàng”. Vũ Kim Thành đóng quân lại Móng Cái; còn 3 vị chỉ huy được ông Hồ Chí Minh mời dự một bữa tiệc, cho phục binh uy hiếp. Đặng Văn Ý tự sát, hai vị còn lại đầu hàng, Bồ Xuân Luật được cử giữ chức Bộ trưởng không giữ bộ nào trong Chính phủ Hồ Chí Minh.

 Vì sự phản bội này, Bồ Xuân Luật bị các đồng chí ra lệnh giết chết nhưng đã trốn thoát được. 

PHONG TRÀO VIỆT MINH XUẤT HIỆN TẠI NAM VIỆT 

Tại Sài Gòn mãi đến đêm 24 tháng 8, Thanh Niên Tiền Phong (9) công khai đi các ngã tư thành phố kéo cờ màu đỏ ngôi sao vàng lên các cột cờ. Các công chức giữ địa vị quan trọng tại các công sở đã ngã theo VM, và ngay đêm hôm đó VM cử Đại Biểu đến yêu cầu quyền Khâm Sai Hồ Văn Ngà từ chức. Họ Hồ vui lòng giao ngay Khâm Sai phủ (dinh Gia Long) cho VM vì ông đã được tin Hoàng Đế Bảo Đại đã ban chiếu thoái vị, mà Khâm Sai Nguyễn Văn Sâm (10) chưa về tới Sài Gòn.

Sáng ngày 25 tháng 8, các cán bộ của Thanh Niên Tiền Phong đã huy động một số lớn dân chúng quy tụ tại thị sảnh Sài gòn, để dự lễ ra mắt của “Lâm Ủy Hành Chính Nam Bộ” do Trần Văn Giàu làm chủ tịch.

 “Mặt Trận Việt Minh” chính thức ra đời ở Nam bộ, khẩu hiệu đầu tiên là kêu gọi  các đoàn thể quốc gia “Đại đoàn kết.”

 Cũng như Hà Nội, ngày mồng 2 tháng 9, Lâm Ủy Hành Chính cũng tổ chức một cuộc biểu tình ở sau Nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn. Dân chúng đứng đợi từ hồi 15 giờ đến 16 giờ rưỡi, nhưng vẫn không được nghe lời tuyên bố “Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua luồng sóng điện theo như lời tuyên bố của ban tổ chức, mà phút chốc chỉ nghe thấy mấy tiếng súng nổ từ trong các nhà Pháp kiều ở phía góc đường bắn ra, làm cho vài thanh niên bị thiệt mạng và một số bị thương.

 Lập tức Thanh Niên Tiền Phong xông lên các nhà Pháp kiều bắt mấy người bị tình nghi, đem đi định giết chết; nhưng nhờ sự can thiệp của nhân viên trong ban tổ chức nên họ chỉ đánh đập, rồi đưa đi giam tại sở Công An.

=====================

Ghi chú: 

(1) Sau cuộc toàn quốc Đại Biểu Đại Hội ở Hương Cảng ngày 1 tháng 5 năm 1929, tổ chức VNTNCMĐCH biến thành hai đảng Cộng Sản: Đông Dương Cộng Sản Đảng do Trần Văn Cung tức Quốc Anh, Ngô Gia Tự tức Sĩ Quyết và Nguyễn Tuân tức Kim Tôn thành lập; An Nam Cộng Sản Đảng do Dương Hạc Đính cùng Lê Văn Hiến thành lập. Cách ít lâu sau một số cán bộ TVCMĐ là Hà Huy Tập, Trần Phú, Trần Phạm Hồ đứng ra tuyên bố giải tán TVCMĐ mà lập ra Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Thế là trong nước Việt Nam thời ấy có tất cả 3 đảng Cộng Sản. Tháng 4 năm 1930, Cao Hoài Nghĩa từ Thái Lan đến Hương Cảng nhận thấy sự hỗn độn ấy, tìm đến Hồ Tùng Mậu, yêu cầu họ Hồ phái người sang Thái Lan bày tỏ cho Nguyễn Ái Quốc biết.

Tháng 8 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng triệu tập Đại Biểu cả 3 đảng Cộng Sản ở Việt Nam sang họp ở Hương Cảng. Nhờ tài khéo dàn xếp của Nguyễn Ái Quốc mà cả 3 đảng đã hợp nhất, lấy tên chung là “Việt Nam Cộng Sản Đảng”, lệ thuộc trực tiếp với “Á Đông bộ.”

Tháng 2 năm 1931, sau khi về Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc lại ra lệnh cho Tổng Bộ VNCSĐ phải đổi tên lần nữa, vì lẽ đảng CS phải lãnh đạo cả phong trào ở Cao Miên và Ai Lao. Tên được đổi lại “Đông Dương Cộng Sản Đảng.”

Sau những vụ bạo động 1930-1931, bị Pháp bắt và sát hại nhiều, khiến dân chúng căm thù và oán ghét Cộng Sản. Rút kinh nghiệm đau thương ấy, tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản tại Tsin-Tsi (Trung Hoa) nhìn nhận rằng: những chủ trương bạo động khi trước là sai lầm, nay phải thay đổi chiến thuật theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế, là từ nay không được để lộ hình tích CS mà chỉ được hoạt động với bộ mặt “Ái Quốc” với bộ áo “Quốc Gia” và lấy danh nghĩa làm cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp mà thôi. Nếu những hành động mà làm cho lộ mặt Đảng CS đều bị coi như những hành động chống lại đảng, và sẽ bị xử theo tội ấy. Thực hiện đúng theo kế hoạch mới này, ngày mồng 8 tháng 9 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc tuyên bố thành lập “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” gọi tắt là “Việt Minh” là một tổ chức hoàn toàn Cộng Sản, nhưng cái danh hiệu lại hoàn toàn có vẻ ái quốc và đoàn kết các tầng lớp giai cấp xã hội để tranh đấu cho độc lập của quốc gia Việt Nam.  Ngoài đảng CS còn có 2 đảng tham gia MTVM là “Dân Chủ Đảng” và “Đảng Xã hội”. (Xem Chương I, Thiên Thứ 2)

Năm 1945, số đảng viên Cộng Sản chưa đầy 2.000 người, cuối năm 1946 đã lên tới gần 20.000 người. Đến đầu năm 1960, số đảng viên CS đã lên tới 50.000 người. Nguyễn Ái Quốc cho rằng đã đủ sức mạnh để thay thế; bèn quyết định đưa Đảng CS ra công khai. Nhưng các cố vấn Trung Cộng được chỉ thị của lãnh tụ Mao Trạch Đông đã không cho phép ra công khai, mà chỉ cho ra trá hình làm “Đảng Lao Động Việt Nam.”

(2) Dân Chủ Đảng do Dương Đức Hiền và Vũ Đình Hòe thành lập năm 1944.

(3) Tài liệu trên trích trong cuốn hồi ký của Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, chưa ấn hành.

(4) Nguyễn Thế Nghiệp nguyên quán tại làng Đồng Tu, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Là con cụ Nguyễn Thế Quảng, Chánh quản trong quân đội viễn chinh Pháp.

Nguyễn Thế Nghiệp là người rất thông minh gan dạ, 18 tuổi đã thi đậu đíp-lôm, được bổ vào ngạch thư ký Tòa Sứ, năm 20 tuổi rời bỏ chức vị, cùng mấy bạn trẻ: Lê Văn Phúc, Hoàng Văn Tùng trốn sang Trung Hoa, tới Móng Cáy bị mật thám bắt lại giam rồi đưa ra tòa kết án mỗi người 6 tháng tù treo.

 Cuối năm 1927, là sáng lập viên VNQDĐ. Năm 1929, bị mật thám bắt, khi ấy giữ nhiệm vụ Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương.

 Ngày mồng 2 tháng 7 năm 1929, Hội Đồng Đề Hình kết án 10 năm cấm cố lưu đày. Đầu tháng 8 năm 1929, trong giờ phút phát vãng, Nguyễn Thế Nghiệp được Brides thả ra để đi cộng tác bắt Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Trái lại, sau khi nắm được giấy tờ và tiền bạc, Nguyễn Thế Nghiệp đi thẳng lên Lao Kai nhờ một đồng chí là Nguyễn Kim Ngữ sang thẳng Vân Nam (Trung Hoa) tổ chức Kiều bào tại đấy thành lập “Hải Ngoại Bộ VNQDĐ”

 Năm 1934, Nguyễn Thế Nghiệp bị cảnh sát Pháp bắt ở tô giới Thượng Hải.

 Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân Pháp lên nắm chính quyền. Nguyễn Thế Nghiệp được trả tự do, trở về nước lại bắt đầu hoạt động.

(5) Chủ tịch kiêm ngoại giao:  Hồ Chí Minh

     Phó chủ tịch kiêm tuyên truyền:  Trần Huy Liệu

     Nội vụ:  Võ Nguyên Giáp

     Quốc phòng :  Chu Văn Tấn

     Tài Chính:  Phạm Văn Đồng 

     Kinh Tế:  Nguyễn Mạnh Hà

     Lao Động:  Lê Văn Hiến

     Thanh Niên:  Dương Đức Hiên

     Giáo dục:  Vũ Đình Hòe

     Tư pháp:  Vũ Trọng Khánh

     Giao thông, công chánh:  Đào Trọng Kim

     Y tế, vệ sinh :  Phạm Ngọc Thạch

     Xã hội:  Nguyễn Văn Tố

     Bộ trưởng không giữ bộ nào:  Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân

(6)  Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Xuân là 2 tên phản bội VNQDĐ chạy theo liếm gót Cộng Sản.

(7) Là con thứ 3 cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Tất Sắc, quán làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Ra chào đời vào ngày 19-5-1890 được đặt tên là Nguyễn Sinh Công. Đến tuổi đi học được đổi tên là Nguyễn Tất Thành.

Sau khi thôi học trường Quốc học Huế, Thành vào Sài Gòn làm tùy phái cho hãng Denis Frères, hãng xuất nhập cảng và đại lý thương thuyền.

 Năm 1911, xuống làm bồi tàu Latouche Tréville lấy tên là bồi Pôn (Boy Paul) được qua Mỹ, Anh, Đức, rồi trở lại ở luôn Ba Lê (Paris) bên cạnh các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường.

Năm 1918, sau ngày Đại Chiến Thứ Nhất kết liễu, cụ Phan Chu Trinh đổi tên cho Nguyễn Ái Quốc để ký vào bản “Nguyện Vọng” gửi cho Hội Quốc Liên.

Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Nga. Năm 1925 được cử làm Bí thư cho phái đoàn Borodine sang Quảng Đông, đổi tên là Lý Thụy.

Năm 1927, sau khi phái đoàn Borodine trở về Moscow, Lý Thụy sang Đức rồi trở về hoạt động cho Cộng Sản ở Xiêm (Thái Lan), Miến Điện, đổi tên là Mai Pín Thầu, nghĩa là “Lão thủ: một tay già.”

Lại trở về hoạt động Cộng Sản trên lãnh thổ Trung Hoa. Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam, thấy động, cho cán bộ phao tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết để đánh lạc hướng thực dân Pháp, rồi trở sang Trung Hoa nơi giáp giới tỉnh Cao Bằng thì bị quân đội Trung Hoa bắt được, Nguyễn Ái Quốc khai tên là Hồ Chí Minh. Rồi bị giải về Liễu Châu, Trương Phát Khuê ra lệnh giam vào “hang đá”.

Theo tài liệu của một lão cán bộ Cộng Sản là ông Ng. V. B. thì cái tên Hồ Chí Minh, nguyên là tên của cụ Hồ Học Lãm là con của Cố Lụa ở làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, xuất ngoại vào thời Đông Du, ở Tầu lấy tên là Hồ Chí Minh, và tạ thế vào năm 1942 tại Nam Ninh. Nguyễn Ái Quốc có tất cả 16 tên.

(8) Lê Tùng Sơn sau là Đại sứ của Chính phủ Hà Nội tại Rangoon (Miến Điện).

(9) Tổ chức Thanh Niên Tiền Phong do Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lãnh. Trước kia đã gia nhập “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất”, khi hay tin Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị, liền trở cờ tuyên bố ly khai, để gia nhập “Mặt Trận Việt Minh”, và đổi tên là “Thanh Niên Cứu Quốc”.

(10) Nguyễn Văn Sâm, một nhân sĩ miền Nam đã từng bị Pháp bắt đi an trí ở một tỉnh xa, được chính phủ Trần Trọng Kim cử làm Khâm Sai Nam Việt. Trên đường từ Huế trở về Sài Gòn nhận chức, Nguyễn Văn Sâm bị VM chặn bắt lại ở Quảng Ngãi.

[Bấm vào đọc chương trước]

[Bấm vào đọc chương kế]


Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (19)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Ba (1940-1946)/ Chương IV: “QUÂN ĐỘI ĐỒNG MINH TIẾN VÀO ĐÔNG DƯƠNG”

Thiên thứ ba (1940-1946)

CHƯƠNG IV: QUÂN ĐỘI ĐỒNG MINH TIẾN VÀO ĐÔNG DƯƠNG

PHÁP THEO CHÂN QUÂN ĐỘI ANH, ẤN TÁI CHIẾM NAM VIỆT, CAM BỐT, AI LAO

Sự bắt mấy Pháp kiều đưa đi giam. Qua ngày hôm sau có sự can thiệp của Bộ Chỉ Huy quân đội Đồng Minh sang giải giới quân đội Nhật Bản. Trần Văn Giàu bắt buộc phải thả mấy người Pháp ra. Việc này làm cho Giàu mất mặt. Giàu phải cho ra một số thông cáo ngụy biện rằng:

 “Chúng ta thả đám Pháp kiều là để tỏ cho Đồng Minh thấy rõ tính hiếu hòa của chúng ta…”

 Những tin tức bất lợi cứ ngày càng tiếp tục lan ra trong nhân dân. Đến ngày mồng 4 tháng 9, nhận thấy có triệu chứng nguy khốn, VM mới triệu tập một phiên khoáng đại hội nghị tại phòng khánh tiết Tòa Thị sảnh Sài Gòn, mời Đại Biểu các đảng phái Quốc Gia tham dự cải tổ hành chánh Nam Bộ, đổi Lâm Ủy Hành Chánh ra “Ủy Ban Nhân Dân.”

 Cách ít ngày sau lại đổi ra “Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ”, Trần Văn Giàu lùi xuống làm Ủy viên Quân sự, Luật sư Phạm Văn Bạch được làm Chủ tịch Ủy ban, Phạm Ngọc Thạch vẫn giữ chức ngoại giao như cũ.

 Ngày mồng 6 tháng 9, một số tù binh Pháp được thả ra, các cơ sở Ba Son, kho đạn và thương khẩu Sài Gòn được quân đội Nhật Bản trao trả lại cho Pháp.

 Ngày mồng 10 tháng 9, trong một cuộc họp báo, Đại tá Cédile tuyên bố: “Chúng tôi phải lập lại trật tự để thiết lập một chính phủ đúng với bản tuyên ngôn ngày 24 tháng 3 của Đại tướng De Gaulle.”

Phản ứng lại, lực lượng của “Mặt Trận Liên Minh” tổ chức các cuộc phá hoại phi trường, thương khẩu, tổng đình công, bãi thị và bắt cóc kiều dân Pháp cùng những người Việt có tiếng thân Pháp.

Ngày 20 tháng 9, Đại tướng Gracey ra bản thông cáo số 1: “Đại tướng có trách nhiệm khôi phục lại trật tự…”  Đồng thời ra lệnh cấm báo chí Việt ngữ xuất bản, cấm người Việt võ trang.

Ngày 21 tháng 9, ra lệnh thiết quân luật, kẻ nào phá hoại sẽ bị nghiêm trị.

Quân Anh đổ bộ lên Sài Gòn 1945

Ngày 22 tháng 9, quân đội Anh đến đóng giữ Khám Lớn, Sài Gòn và thả hết những binh sĩ nhảy dù Pháp bị Nhật bắt giam hồi trước.

Ngày 23 tháng 9, vào khoảng 4, 5 giờ sáng, Pháp quân bất thình lình kéo đến chiếm đóng các sở Công An, Cảnh sát Trung ương, kho bạc, rồi thừa đà thắng, chiếm luôn Tòa Thị Sảnh (trụ sở của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ).  Trở tay không kịp, các yếu nhân VM chạy vào chợ Đệm. Dân chúng đã tản cư từ mấy ngày trước, nay lại tiếp tục tản cư thêm. Thành phố Sài Gòn lại trở vào tay quân đội Pháp kiểm soát.

Để trả miếng, ngày 24 tháng 9, một số Pháp kiều bị bắt cóc, bị giết chết, phòng phát điện bị giật mìn. Cédile liền cho áp dụng biện pháp lấy võ khí phân phát cho thường dân Pháp sử dụng để chống khủng bố; đồng thời bắt nhiều người tình nghi là thân Việt Cộng đem giam cầm.

Theo lời khuyên của Đại tướng Gracey, vị Tổng Tư Lệnh quân đội Đồng Minh đến giải giới quân đội Nhật Bản, thì nên có một cuộc tiếp xúc giữa Cédile với Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ. Ngày mồng 5 tháng 10, đôi bên đã gặp nhau, nhưng lập trường xa cách không đi đến một kết quả nào! Cũng ngày mồng 5 tháng 10, VM đưa điều kiện:

 – “Tước hết khí giới quân đội Pháp, bắt Pháp phải tập trung vào một nơi. VM sẽ trở lại nắm chính quyền như tình thế trước ngày 23 tháng 9. VM sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm giữ an ninh trật tự và tiếp tế lương thực cho quân đội Pháp tập trung.”

Dĩ nhiên là Pháp không bao giờ lại chịu điều kiện ấy.

Cũng ngày mồng 5 tháng 10, Tướng Leclerc đã có mặt ở Sài Gòn, chiến hạm Pháp cũng tiếp tục cập bến Sài Gòn, quân số đổ bộ khá đông; lại nhờ được thế của Đồng Minh Anh Cát Lợi ủng hộ. Leclerc quyết định dẹp tan phong trào chống Pháp để thực hiện mục đích tái chiếm Đông Dương. Trước hết, Leclerc cho quân nhảy dù và đổ bộ thêm quân xuống chiếm Cam Bốt và Ai Lao.

Ngày 12 tháng 10, Pháp tung quân đánh chiếm Gia Định, Gò Vấp và Phú Mỹ.

Ngày 23 và 25 tháng 10, quân Anh, Ấn tiến đánh chiếm Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

Ngày 29 tháng 10, chiếm đóng Vĩnh Long.

Ngày 30 tháng 10, chiếm đóng Cần Thơ.

Ngày mồng 1 tháng 12, Pháp xua quân tiến chiếm Ban Mê Thuộc, rồi đổ bộ Nha Trang, Khánh Hòa, Đà Lạt. Và cách ít ngày sau, các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau đều bị Pháp quân chiếm đóng.

“Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ” từ Cái Bè rút xuống Cù Lao Bến Tre, thực hiện theo đúng kế hoạch Nga Sô: “Vườn Không Nhà Trống”. Các thị trấn bị thiêu hủy thành đống tro tàn, đường giao thông bị cắt, cầu bị phá hủy, v.v…  Sức chiến đấu lúc bấy giờ hoàn toàn do nhân dân tự động tổ chức. 

NHÂN DÂN MIỀN NAM ĐOÀN KẾT TỰ ĐỘNG KHÁNG CHIẾN 

Nhân dân miền Nam không phân biệt đảng phái và tôn giáo, đã hợp nhất để thành lập 4 sư đoàn dân quân kháng chiến.

Đệ Tam Sư Đoàn là một trong 4 sư đoàn nói trên được thành lập gồm các bộ đội với thành phần lớn là những chiến sĩ của:

 – Việt Nam Quốc Dân Đảng

 – Việt Nam Quốc Gia Đảng

 – Ban Cảm Tử Huỳnh Long Đảng

 – Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Đoàn

 – Một phần Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Giáo 

Đệ Tam Sư Đoàn do Nguyễn Hòa Hiệp, một chiến sĩ VNQDĐ chỉ huy.

Ngày 22 tháng 9 năm 1945, trước uy thế của thực dân Pháp dự định đè bẹp các làn sóng cách mạng để tái lập chủ quyền trên lãnh thổ Đông Dương. Tất cả các chiến sĩ đều đồng lòng hợp nhất dưới bóng cờ “Nam Bộ Vệ Quốc Liên Quân Đệ Tam Sư Đoàn”, hăng hái chờ lệnh tiêu diệt quân thù.

Mở màn chiến cuộc trên mặt trận Gò Vấp, từ Thị Ngè, Cầu Bông đến Tân Bình, Bà Quẹo. Đệ Tam Sư Đoàn với một quân số trên dưới 5.000 chiến sĩ đã gây cho tập đoàn quân xâm lược nhiều phen tán đởm kinh hồn trong những trận du kích ác liệt từ Gò Vấp tới An Nhơn; từ Chợ Cầu đến Chợ Cây Xoài và cầu Bến Phấn.

Trong chiến tuyến Cầu Quan, Tha La, Đệ Tam Sư Đoàn với vũ khí thô sơ đã gây cho quân Pháp với cả đại bác 75 ly trong vòng một tháng đã không chọc thủng được mặt trận này.

Mặt khác, dùng lợi thế bưng biền của khu Lộc Giang, Phước Chỉ, Rạch Tràm, Đệ Tam Sư Đoàn phát triển mạnh du kích chiến, phá hoại tiềm lực của thực dân từ Hốc Môn đến Củ Chi, Suối Cụt; từ Đức Hòa, Hiệp Hòa đến Lộc Giang, Sóc Nóc. Đặc biệt trong trận chiến quận lỵ Sóc Nóc đã giải thoát được một số lớn đồng bào bị thực dân bắt giam tại đấy.

Quân số của Đệ Tam Sư Đoàn đã tăng lên tới 15.000 chiến sĩ khi đến Cao Lãnh và tổ chức gồm có:

23 Bộ Đội (mỗi Bộ Đội có quân số từ 500 đến 600 người).

Các ban tham mưu, cơ sở chuyên môn (cơ khí, y tế, tiếp tế, tình báo, liên lạc, v.v…)

Từ miền Đông băng qua Đồng Tháp Mười mênh mông sình lầy nước đọng để dến miền Tây, Đệ Tam Sư Đoàn bắt đầu gặp những khó khăn do lực lượng Cộng Sản gây nên. Nhất là khi đến Cao Lãnh và đã bắt buộc phải dùng lực lượng võ trang để đè bẹp và đẩy lui các thành phần Cộng Sản phá hoại và phản bội.

Cách 2 tháng sau, quân Pháp đã từ tiền đồn Sa Đéc, cửa ngõ của Đồng Tháp Mười, tràn ngập tiến vào Cao Lãnh, Tổng hành dinh của Đệ Tam Sư Đoàn vào giữa mùa xuân 1946. Trước áp lực này, Bộ Tư Lệnh sư đoàn lại trở về miền Đông, và đã thanh toán một đồn lớn của Pháp, thu được rất nhiều khí giới, thực phẩm và quân nhu.

Vượt khỏi đồn này tiến quân về miền Đông, lại bị một đại đội thuộc lực lượng Cộng Sản chặn đánh; đội tiền quân của Đệ Tam Sư Đoàn đã đánh tan và thu được 15 súng trường.

Từ ngày Đệ Tam Sư Đoàn trở lại chiến tuyến miền Đông, đại đơn vị này đã phải lâm vào thế “lưỡng đầu thụ địch”: một mặt phải chống Pháp và một mặt phải ngăn ngừa các cuộc đột kích phá hoại, bắt cóc cán bộ, ám sát cấp chỉ huy do Cộng Sản điều khiển. Đến sau ngày ký hiệp định 6-3-1946, Cộng Sản đã không ngần ngại bí mật cung cấp tin tức cho phòng nhì Pháp, để tiêu diệt Đệ Tam Sư Đoàn.

Sự phản bội kháng chiến của Cộng Sản tại Nam Bộ là một lý do chính yếu, khiến Đệ Tam Sư Đoàn và Bộ Tham Mưu trở về thành, phân tán hòa mình trong dân chúng. Riêng các cán bộ VNQDĐ trong Đệ Tam Sư Đoàn đã rút vào bí mật; nỗ lực duy trì cơ sở dưới mọi hình thức qua các trào lưu thực dân và độc tài. (1) 

QUÂN ĐỘI TRUNG HOA TIẾN VÀO BẮC VIỆT VÀ BẮC TRUNG VIỆT 

Quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng tiến vào Hải Phòng 1945

Quân đội Trung Hoa từ tỉnh Vân Nam, kẻ mang giày cao su, người đi đất, lôi thôi lếch thếch tiến vào Bắc Việt vào cuối tháng 8 năm 1945. Đạo quân thứ 39 tiến vào tỉnh Lao Kai xuống đóng tại Hà Nội. Đạo quân thứ 62 tiến vào Lạng Sơn, Cao Bằng thẳng xuống Hà Nội. Đạo quân thứ 52 tiến thẳng xuống thành phố Hải Phòng và các tỉnh miền duyên hải. Đạo quân thứ 60 tiến thẳng vào Bắc Trung Việt, đóng rải rác từ Vinh đến Đà Nẵng. Tổng số là 180.000 binh sĩ thuộc dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Lư Hán. (2)

 Các đạo quân Vân Nam và Quảng Đông tiến vào Bắc Việt và Bắc Trung Việt, chúng coi như là một tỉnh bị chiếm đóng để người Trung Hoa sang cai trị. Bao nhiêu những biệt thự, những nhà lầu to lớn, chúng đều đuổi gia chủ chiếm lấy để ở. Ra tay khủng bố bắt đồng bào của họ, những người đã hợp tác kinh doanh với người Nhật để làm tiền, nhiều người bị tịch thu cả tài sản, để chúng có tiền may sắm quần áo, cùng giày dép mới. Đi chợ mua thực phẩm, chúng không trả tiền, hoặc có trả thì trả một giá rẻ mạt, gần như mua quỵt. Nhất là vấn đề đem tiền Quan Kim của Trung Hoa đổi lấy tiền Đông Dương để mua bán (3), đã gây nên bao thảm họa cho dân chúng Việt Nam.

 Đại tướng Lư Hán mãi đến ngày 18 tháng 9 năm 1945 mới đáp phi cơ tới Hà Nội, đuổi bọn Sainteny ra khỏi dinh thự Toàn Quyền, rồi chiếm ngụ ở đó.

Biết rõ tình hình người Trung Hoa, còn ai hơn ông Hồ Chí Minh! Để đấm mõm trước, họ Hồ cho trích quỹ “Tuần Lễ Vàng” đánh một khay đèn cùng đầy đủ dụng cụ hút nha phiến toàn bằng vàng, cùng hàng tấn nha phiến hảo hạng đem tặng cho Lư Hán; và các đồ vật quý khác cũng bằng vàng tặng cho Tiêu Văn và các vị tướng lãnh cao cấp khác.

 Để trấn an dư luận, ông Hồ Chí Minh ra lệnh cho các báo đăng tin: “Quân đội Trung Hoa đến đây là để giải giới quân đội Nhật Bản, không có tham vọng gì về đất đai của chúng ta. Chúng ta phải tỏ cảm tình mật thiết giữa hai dân tộc…”

 – “Quân đội Trung Hoa sang đây là để giúp đỡ dân tộc chúng ta hoàn thành nền độc lập của chúng ta…”

_____

(1) Trích theo tài liệu tuần san “Chính Nghĩa” số 1, tháng 6 năm 1964.

(2) Vào tháng Chạp 1945, đạo quân Trung ương thứ 53 được phái sang thay thế cho đạo quân 52 và 62 rút về Trung Hoa.

(3) Một đồng Quan Kim định giá là 1đ 50 tiền Đông Dương Ngân Hàng.

[Bấm vào đọc chương trước]

[Bấm vào đọc tiếp chương kế]

Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (20)

$
0
0

Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Thứ Ba (1940-1946)/ Chương V: “Nhiệm Vụ Lịch Sử của các chiền sĩ VNQDĐ”

Thiên Thứ Ba (1940-1946)

Chương V: “Nhiệm Vụ Lịch Sử của các chiền sĩ VNQDĐ”

CÁC CHIẾN SĨ TỪ TRUNG HOA TRỞ VỀ NƯỚC 

Theo sự dự đoán của cấp lãnh đạo VNQDĐ ở Côn Minh, thì Nhật Bản sẽ bị bại trận vào khoảng tháng 9 năm 1945. Không ngờ sự bại trận của Nhật Bản lại sớm hơn, mọi sự xếp đặt đều vội vàng; lại một sự bất ngờ nữa, Việt Minh Cộng Sản đã cướp được chính quyền, phe quốc gia hoàn toàn thất bại, cơ hội ngàn năm một thuở!

Mặc dầu biết rằng đại cuộc đã lỡ, nhưng mọi người vẫn tích cực hoạt động, đồng quyết nghị để Nghiêm Kế Tổ ở lại Côn Minh xử lý mọi việc liên hệ, còn các khu đều được lệnh trở về quốc nội. Thoạt đầu, Hải Ngoại Bộ vận động để Vũ Hồng Khanh cùng mấy cán bộ đáp phi cơ trở về nước trước khi Lư Hán tới Hà Nội, nhưng cuộc vận động đã không thành. Mãi đến ngày mồng 1 tháng 9 năm 1945, Vũ Hồng Khanh cùng toàn thể đồng chí mới từ biệt Côn Minh do đường Mường Khương tiến vào ngã Lao Kai. Số võ khí mà Chính phủ Trùng Khánh hứa viện trợ cho một Tiểu đoàn đầu tiên cũng chưa kịp tiếp nhận.

 Thời gian ấy quân đội Lư Hán rầm rộ tiến vào Bắc Việt, các báo chí ở Côn Minh đều loan tin: “Đại Tướng Lư Hán định tổ chức Quân Chính phủ tại Việt Nam và hiện đương tìm người đảm nhiệm các cơ quan Hành chính…”

Xét thấy rất có hại cho tiền đồ Tổ Quốc, đại diện Hải Ngoại Bộ VNQDĐ ở Côn Minh liền lập một bản kiến nghị gửi đến Trung ương Đảng bộ TQQDĐ, nhờ chuyển đến Thống Chế Tưởng Giới Thạch, phản kháng việc lập Quân Chính phủ tại Việt Nam. Bởi vậy Lư Hán không thực hiện được ý định ấy.

Ngày 15 tháng 9, Vũ Hồng Khanh cùng các đồng chí của ông mới về tới thị trấn Lao Kai, lại vấp phải tình hình tỉnh Lao Kai lúc ấy từ Hành chính đến Quân sự đều đã ở trong tay VM CS. Tỉnh trưởng là Đàm Quang Vinh thấy các chiến sĩ VNQDĐ về tới Lao Kai, lo cho thân thế mình không có gì bảo đảm, liền bí mật đem một số vàng đến hối lộ Lý Du Sinh để cầu sự che chở.

Lý Du Sinh nguyên là Giới nghiêm Tư lệnh quân đội Trung Hoa được Đại tướng Lư Hán phái đến Lao Kai trước để giữ an ninh, và liên lạc với bộ đội Trung Hoa sắp tới. Lý Du Sinh lại vốn là kẻ tham ô, không kể gì đến danh nghĩa, và bởi món quà quá hậu, họ Lý hứa dùng đủ mọi cách ngăn ngừa mọi hoạt động của VNQDĐ.

 Để tránh sự đổ máu vô ích, Vũ Hồng Khanh phái Triệu Việt Hưng hướng dẫn Vũ Việt Hùng, Trần Viên, Hoàng Hiền, Nguyễn Văn Mộng và Nguyễn Bá Thành vào Chapa dùng thủ đoạn chính trị đoạt chính quyền để gây cơ sở phát động.

 Nhận thấy rõ sự hoạt động có phương pháp của VNQDĐ có cơ nguy hại cho mình, Đàm Quang Vinh tìm hết lời lẽ xuyên tạc và đem thêm vàng khẩn cầu Tư lệnh Lý Du Sinh. Du Sinh không ngần ngại dùng võ lực áp bức, hạ lệnh cho Đại úy Vương Ngọc Tường đồn trú ở Chapa bắt Triệu Việt Hưng cùng 5 cán bộ tống giam, đồng thời ở Lao Kai, cũng cho mời Vũ Hồng Khanh đến Tư lệnh bộ, rồi giữ luôn.

 Xét thấy bọn Lý Du Sinh vì lợi riêng mà làm trái luật Quốc Tế, uy hiếp một cách dã man, các đảng viên VNQDĐ ở ngoài đánh điện tín kháng nghị với chính phủ Trung ương Trung Hoa. Tổng Thống Tưởng Giới Thạch lập tức hạ lệnh cho Lý Du Sinh phải để cho VNQDĐ được tự do hoạt động, và cảnh cáo Lý Du Sinh về tội làm việc bất hợp pháp.

Ngày 12 tháng 10, Vũ Hồng Khanh cùng 6 cán bộ được Lý Du Sinh trả tự do, và lại bắt đầu hoạt động. 

Vì thời gian cấp bách, Triệu Việt Hưng, Vũ Việt Hùng, Lê Tùng Anh và Trương Nghĩa Xương được cử ở lại Lao Kai hoạt động; còn Vũ Hồng Khanh và các đồng chí của ông vội trở về Hà Nội. Hôm ấy là ngày 20 tháng 10 năm 1945, tức là tới sau Lư Hán cách một tháng trời.

Trên đường trở về Hà Nội, họ Vũ ghé qua thăm các đồng chí mới chiếm được 2 tỉnh Yên Bái và Vĩnh Yên.

Trong khi ấy ở Hà Nội, VM CS giật dây. Mấy đảng viên của VNQDĐ là Nguyễn Văn Xuân, Bùi Văn Hạch, Phạm Quang Chúc, Trần Ngọc Tuân tức là Trần Quốc Kính, Trần Đức Chính… đứng ra lập Ủy Ban Vận Động Cải Tổ VNQDĐ do Nghiêm Toản làm chủ tịch, hoạt động được ít ngày, nhưng không thu hút được ai, nên tự động giải tán.  Trừ giáo sư Nghiêm Toản, còn đều chạy theo phục vụ cho VM CS.

Nguyễn Hải Thần, cụ đã cùng quân đội Trung Hoa trở về nước từ đầu tháng 9, được “Đại Việt Quốc Xã Đảng” tôn lên địa vị lãnh tụ tối cao, thành lập hai trụ sở công khai: số 21 Đường Quan Thánh và ở Đường Lò Lợn, Hà Nội,  kéo lá cờ VNCMĐMH. Nhượng Tống được mời làm Bí thư, Nguyễn Triệu Luật làm Chánh trị Ủy viên, Tạ Nguyên Hối Kinh tài Ủy viên…

Ngày lễ “Song Thập” được tổ chức tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội. Cụ Nguyễn Hải Thần lên diễn đàn, chỉ trích Cộng Sản thậm tệ. Tiêu Văn ngồi cạnh khuyến cáo cụ chỉ nên nói đến cuộc cách mạng Tân Hợi mà thôi. Cụ Nguyễn liền quay lại mắng thẳng vào mặt Tiêu Văn trước sự hiện diện của quan khách ngoại quốc và đám quần chúng đông đảo, làm cho Tiêu Văn mất mặt.

Sau cuộc hành lễ, quân đội VM CS được phái đến đánh úp trụ sở của VNCMĐMH ở đường Lò Lợn. Kết quả quân đội của cụ Hồ bị tử thương mất một số; bên VNCMĐMH bị thương có một chiến sĩ. Còn trụ sở Đường Quan Thánh, một đạo quân của cụ Hồ tiến đến Vườn Hoa Hàng Đậu, bị quân đội Trung Hoa chặn lại bắt quay trở về, vì họ đã nghe thấy tiếng súng nổ ở về phía Lò Lợn. 

TRUNG ƯƠNG QUỐC DÂN ĐẢNG 

1

Thực thi việc thống nhất 3 đảng cách mạng: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng, chiếu quyết nghị ở Trùng Khánh hồi tháng 5 năm 1945, Trung ương Đảng bộ Quốc Dân Đảng đã được công bố thành lập. Trụ sở công khai đặt tại Trường Tiểu Học Đỗ Hữu Vị, Hà Nội từ ngày 15 tháng 12 năm 1945.  Đảng kỳ vẫn là lá cờ “Sao Trắng”, Đảng ca là bài “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” (1). Trung ương Đảng bộ được tổ chức thành hai bộ phận: bí mật và công khai.

 A) Tối cao bí mật chỉ huy bộ:

Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và Nguyễn Tường Tam.

B) Chủ tịch đoàn công khai:

Chủ tịch : Trương Tử Anh (ĐVQDĐ)

Bí thư trưởng : Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ)

Ủy viên : Xuân Tùng (VNQDĐ), Nguyễn Tường Long (ĐVDCĐ), Phạm Khải Hoàn (ĐVQDĐ)

Ủy viên Trung ương:

Tổng thư ký Trung ương Đảng bộ : Nguyễn Tường Tam (ĐVDCĐ)

Ủy viên : Nguyễn Tường Bách (ĐVDCĐ), Chu Bá Phượng (VNQDĐ), Nguyễn Văn Chấn (VNQDĐ),Vũ Đình Chí (VNQDĐ), Phạm Văn Hể (VNQDĐ), Nghiêm Kế Tổ (VNQDĐ), Nguyễn Tiến Hỷ (ĐVQDĐ), Phạm Ngọc Chi (ĐVQDĐ)

Và sau đấy một thông tri được gởi đi khắp Chi bộ cũng như chiến khu, ra lệnh chỉ được phép dùng danh từ duy nhất là “Quốc Dân Đảng”.

Cơ quan tranh đấu chính trị của “Quốc Dân Đảng” là tờ Nhật báo “Việt Nam” và tờ Tuần báo “Chính Nghĩa”. 

Đồng thời mở nhiều lớp huấn luyện: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng quân sự, chính trị.

Tại Bắc Việt và Trung Việt được chia ra làm 7 Chiến khu Đảng bộ, phái cán bộ phụ trách từng khu để chống Thực, Cộng một cách hữu hiệu hơn.

Thời gian ấy, các giới quan lại, công chức, tư bản đều bị CS khủng bố dữ dội; để bảo vệ đời sống của họ, đa số những phần tử trong các giới nói trên đều xin gia nhập vào QDĐ.

Trước hoàn cảnh đặc biệt ấy, thiếu hẳn sự điều tra lựa chọn, Đảng đã kết nạp đảng viên một cách quá dễ dàng để có ngay một lực lượng đông đảo để chống VM CS, khiến có một số đã lợi dụng danh nghĩa Đảng làm càn. 

2 

Về kinh tế, QDĐ không có một nguồn lợi kinh tế nào! Mọi ngành hoạt động đều trông vào sự hy sinh đóng góp của các đảng viên. Trái lại, đối phương đã có tuần lễ vàng, và còn biết bao sự quyên cúng thường xuyên của toàn dân! Bao thuế khóa và tài nguyên phong phú của cả một quốc gia mà nhân dân đang hăng say về nền độc lập.

Về chính trị, đối phương đã nắm vững được guồng máy hành chính trong toàn quốc, có một lực lượng quân đội, công an, đặc vụ hùng hậu, nhất là công an nhân dân. Và hơn nữa, các cán bộ cao cấp đều được un đúc ở Nga Sô, rút được nhiều kinh nghiệm về tuyên truyền rất quý giá. Vấn đề tuyên truyền được đặc vào hàng đầu, người dân vốn chất phát dễ tin tưởng ngay. Bất cứ người nào và hành động nào trái với đường lối của CS là bị gán ngay cho cái danh từ là “phản động”, là “Việt gian” để có những lý do bắt bớ giam cầm thủ tiêu; mà phần đại đa số dân chúng thì lại yên trí rằng: “Việt Minh Cộng Sản mới thực là những người Quốc Gia yêu nước nhất.”

Bởi vậy sự tuyên truyền của các Đảng phái Cách mạng Quốc Gia, nhất là QDĐ không thể đi sâu vào quần chúng, bởi guồng máy công an mật vụ của Cộng Sản quá nhiều, khiến cho quần chúng không thể thấu hiểu đâu là chính nghĩa Quốc Gia! Đâu là Cộng Sản Quốc Tế! 

Quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng đến Hải Phòng 1945

Về phương diện ngoại giao, QDĐ trông cậy phần nào vào TQQDĐ, nhưng không may gặp phải giữa lúc tình thế nước Trung Hoa hồi ấy nội bộ đương xảy ra nhiều sự rắc rối vô cùng! Nguyên từ Hội nghị Postdam, Đồng Minh đã quyết định sau khi Nhật Bản đầu hàng, Quân đội Trung Hoa được phái sang Đông Dương từ Vĩ Tuyến 16 trở ra, để thi hành với nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật Bản, giữ trật tự ở những miền quân Nhật chiếm đóng, và giúp đỡ phương tiện hoặc giáo dục, hoặc giám sát cho dân chúng địa phương để tự tổ chức lấy một chính phủ nhân dân.

Nhẽ ra Tướng Trương Phát Khuê được cử giữ trọng trách đó, vì họ Trương là Đại tướng chỉ huy Đệ Tứ Chiến Khu, nơi tiếp giáp biên giới Việt-Hoa, nhưng họ Trương lại là người chống đối Thống Chế Tưởng Giới Thạch. Đó là một bất lợi cho QDĐ.

Để tránh mọi sự nguy hiểm có thể xảy ra, Tưởng Thống Chế cử Đại tướng Quan Lâm Trương chỉ huy Đệ Tứ Tập đoàn quân, lại là cán bộ cao cấp trung thành của TQQDĐ. Rất có lợi thế cho QDĐ.

Giữa khi ấy một biến cố quan trọng xảy ra, Long Vân, Chủ tịch tỉnh Vân Nam lại mưu tạo phản chống lại Chính phủ Trung ương, khiến Tưởng Thống Chế phải rút lệnh cử Đại tướng Quan Lâm Trương, và ra lệnh cử Đại tướng Lư Hán đem đạo quân tỉnh Vân Nam sang giải giới quân đội Nhật Bản ở phía bắc Đông Dương. Tức là kế “Điệu hổ ly sơn”, chặt hết tay chân của Long Vân, vì Lư Hán có họ ngoại với Long Vân.

Sau khi Lư Hán kéo hết quân đội Vân Nam vào nội địa Việt Nam, Tưởng Thống Chế liền phái quân đội Trung ương đến hạ Long Vân, bắt giải về Nam Kinh giam giữ, cử Lý Tôn Hoằng làm Chủ tịch tỉnh Vân Nam.

Tới Hà Nội mới được ít ngày, thì được tin Long Vân đã bị Chính phủ Trung ương bắt giam. Lư Hán đâm ra chán nản thất vọng, chỉ muốn làm xong nhiệm vụ giải giới, vơ vét một số vàng, bạc, châu báu rồi mau trở về Trung Hoa. Tuy Thiều Bá Xương với danh nghĩa là đại diện Chính phủ Trung ương cử sang hiệp trợ giải giới quân đội Nhật Bản, nhưng trong thực tế, họ Thiều vẫn phải phụ thuộc dưới quyền của đại tướng Lư Hán. Còn Tiêu Văn với danh nghĩa đại diện Tướng Trương Phát Khuê sang Việt Nam với nhiệm vụ là Chính trị viên Chỉ đạo, hiệp trợ cho VNCMĐMH lập chính phủ. Nói đến VNCMĐMH thì gồm những thành phần: Vô đảng phái, VNQDĐ, VNPQĐMH, VNĐLĐMH. Nhưng Tiêu Văn đã bỏ rơi hết, thiên về “TÚI VÀNG” của Cộng Sản Việt Nam.

Quốc Dân Đảng trước sau nhận được 2 công điện của chính phủ Trung ương Trùng Khánh đánh sang Hà Nội, báo đến Bộ Tổng Tham Mưu của Đại Tướng Lư Hán để tiếp nhận số võ khí mà quân đội Trung Hoa đã giải giới được của quân đội Nhật Bản dọc theo thiết lộ từ Việt Trì đến Lao Kai. Đại diện QDĐ đến giao thiệp, bọn tướng lãnh Tầu phù đổ lẫn trách nhiệm cho nhau, rồi cuối cùng đâm lánh mặt.

Cho mãi tới khi quân đội Trung Hoa sửa soạn rút lui, mới phái người đến gặp Đại Biểu QDĐ yêu cầu phái người đến tiếp nhận võ khí. Đến khi mở cửa các kho mà bề ngoài cánh cửa còn niêm phong hẳn hòi, dấu đỏ đóng to bằng cái mẹt, nhưng bên trong chỉ còn toàn là quần, áo, giày, bít tất cũ đã rách nát của quân đội Nhật Bản bỏ lại mà thôi! Sự thật 80.000 khẩu súng gồm đủ các loại đã tước được của quân đội Nhật Bản, Lư Hán và bè lũ đã bán hết cho Cộng Sản VN lấy hàng chục va-li (valise) vàng đưa về Côn Minh bằng đường hàng không rồi. Còn một số súng đạn rỉ thì đưa về kho chứa ở Hà Khẩu, mệnh danh là “Chiến lợi phẩm”, còn đâu nữa mà giao cho Quốc Dân Đảng?

Giữa thời cần phải tranh đấu bằng giải pháp quân sự, mà QDĐ không có một nguồn lợi kinh tế, thiếu súng đạn, thiếu lương thực; quần chúng lại bị lũng đoạn ở trong vòng gọng kìm của quân đội và công an cảnh sát Việt Minh Cộng Sản. Hỏi làm sao mà tránh sự thất bại không chóng thì chầy được? Mặc dầu tinh thần của các chiến sĩ trong hàng ngũ QDĐ rất cao.

Tóm lại, Quốc Dân Đảng đã vấp phải mọi sự không thuận tiện một tý nào! Từ thiên thời, địa lợi đến nhân hòa. Nhưng mặc dầu đứng trước tình thế bất lợi và nguy hiểm ấy, người chiến sĩ cách mạng QDĐ vẫn cố gắng làm tròn nghĩa vụ của mình đối với quốc gia dân tộc.

================================

 (1) VIỆT NAM MINH CHÂU TRỜI ĐÔNG    

Tác giả: Hùng Lân 

Việt Nam! Minh Châu Trời Đông.

Việt Nam! Nước thiêng Tiên Rồng!

Non sông như gấm hoa uy linh một phương.

Xây vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương.

 Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.

 Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.

 Máu ai còn vương cỏ hoa.

 Giục đem tấm thân sẻ với sơn hà.

 Chung tâm cương quyết ta ôn lời thệ ước.

 Hy sinh tâm huyết mong báo đền ơn nước.

 Dù thân này tan tành chốn sa trường cũng cam.

 Thề – Trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.

[Bấm Vào đọc chương trước]

[Bấm Vào Đây Đọc Chương Kế]

Viewing all 216 articles
Browse latest View live